Kinh nghiệm phát triển công nghiệp hỗ trợ cho ngành ô tô tại một số quốc gia (Bài 6)
Các quốc gia trong khu vực và trên thế giới khi tiến hành xây dựng và thực thi các chính sách khuyến khích phát triển CNHT cho ngành ô tô đều nhấn mạnh các kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, cần xây dựng chiến lược phát triển CNHT cho ngành ô tô tổng thể với lộ trình và bước đi thích hợp. Sự thành công của nền công nghiệp ô tô Thái Lan bắt đầu bằng việc xây dựng được một chiến lược tổng thể và tập trung nguồn lực phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô. Việc tạo dựng được một mạng lưới CNHT cho ngành công nghiệp ô tô vững mạnh với trình độ công nghệ cao đã tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh của ngành công nghiệp ô tô Thái Lan.
Thứ hai, tạo thị trường cho CNHT ngành ô tô dựa trên sự phát triển của ngành sản xuất, lắp ráp ô tô nội địa.
Thứ ba, phát triển ngành ô tô và CNHT ngành ô tô đi đôi với quy hoạch và phát triển cơ sở hạ tầng cho CNHT. Bên cạnh đó, quy hoạch các vùng (cụm) phát triển CNHT nói chung và CNHT cho ngành công nghiệp ô tô nói riêng nhằm giảm thiểu chi phí giao dịch, cải thiện năng lực cạnh tranh. Kinh nghiệm của Thái Lan cho thấy, sự kết hợp giữa quy hoạch ngành và quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng đã góp phần tạo nên sự thành công của nền công nghiệp ô tô Thái Lan nói chung và CNHT cho ngành công nghiệp ô tô nói riêng.
Thứ tư, thu hút đầu tư có chọn lọc, nhất là FDI, hướng đầu tư trực tiếp cả trong và ngoài nước vào các lĩnh vực CNHT cho ngành công nghiệp ô tô. Việc cam kết thực thi hệ thống chính sách đồng bộ, nhất quán, ổn định, minh bạch nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô ở một số nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong thu hút đầu tư từ các hãng sản xuất ô tô lớn nước ngoài, khuyến khích họ tìm kiếm các đối tác cung ứng trong nước. Bên cạnh đó, việc thu hút chọn lọc một số hãng FDI như những đối tác chiến lược trong hợp tác với các doanh nghiệp trong nước, hướng vào một số lĩnh vực CNHT cho ngành ô tô mũi nhọn trong nước là biện pháp quan trọng để thúc đẩy CNHT cho ngành công nghiệp ô tô phát triển.
Thứ năm, nhất quán phát triển nền CNHT cho ngành công nghiệp ô tô dựa trên nền tảng phát triển hệ thống DNNVV. Thúc đẩy đầu tư liên kết, liên doanh trong học hỏi công nghệ nâng cao năng lực sản xuất trong CNHT cho ngành công nghiệp ô tô. Có thể lựa chọn một số doanh nghiệp tiềm năng trong khu vực tư nhân làm hạt nhân thúc đẩy các quan hệ liên doanh chiến lược trong các công ty trong nước. Xây dựng các chương trình, chính sách tạo dựng mối liên kết giữa các đối tượng này đảm bảo lợi ích giữa các bên đồng thời khai thác được lợi ích từ phía liên doanh, liên kết. Hỗ trợ và khuyến khích vai trò đầu tàu của hãng được chọn trong thiết lập các vùng (cụm) công nghiệp lớn, trong đó hội tụ các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành CNHT, nhằm hình thành các mạng sản xuất và vùng cung ứng.
Thứ sáu, thực hiện tốt vai trò hỗ trợ phát triển của các cơ quan quản lý nhà nước. Trong các chương trình, dự án, thay vì chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, các cơ quan quản lý nhà nước cần phải đóng một vai trò hỗ trợ mang tính tích cực, có khả năng xây dựng, đề xuất, chỉ đạo thực hiện các chương trình, dự án cụ thể cũng như quản lý điều hành, giám sát chặt chẽ quá trình triển khai thực hiện các chiến lược, chính sách và các chương trình phát triển.
Thứ bảy, xây dựng các chương trình nhằm điều phối, kết nối và xây dựng mạng lưới các doanh nghiệp lắp ráp, sản xuất ô tô trong nước với các doanh nghiệp CNHT cho ngành ô tô, nhằm tạo ra các liên kết đủ lớn để có được lợi thế theo quy mô. Chính phủ cần khuyến khích, thúc đẩy các mối liên kết theo cả chiều dọc và ngang trong chuỗi giá trị.
Ảnh minh họa
Kinh nghiệm của Trung Quốc
Hiện nay Trung Quốc là nước sản xuất ô tô và phương tiện thương mại đứng đầu thế giới, chiếm khoảng 25,4% thị trường ô tô và phương tiện thương mại toàn cầu, khoảng 20% là các hãng nội địa.
Sự thay đổi trong chính sách phát triển kinh tế, nhất là việc mở cửa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ sau năm 1978 là chính sách quan trọng nhất thúc đẩy phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô. Có thể nói, Trung quốc đã nhanh chóng dỡ bỏ các rào cản và ban hành các chính sách thông thoáng thu hút FDI vào ngành công nghiệp ô tô. Nhờ đó, hầu hết các hãng ô tô lớn trên thế giới đã có mặt tại Trung quốc như Volkswagen của Đức, GM và Ford của Mỹ, Toyota của Nhật Bản và Peugeot – Citroen và Fiat của châu Âu.
Đây được xem là bước ngoặt trong phát triển công nghiệp ô tô Trung Quốc. Tuy nhiên, do chưa được chú trọng phát triển, trong giai đoạn đầu của thời kỳ này CNHT cho ngành công nghiệp ô tô mới chỉ phát triển ở mức độ thấp, còn yếu kém cả về năng lực công nghệ, khả năng tài chính và nguồn nhân lực, sản xuất sản phẩm chất lượng thấp. Vì vậy, linh kiện, phụ tùng chủ yếu nhập từ các nước có nền CNHT phát triển mạnh như Mỹ, Nhật, Đức. Sau đó, để tăng cường sức cạnh tranh cho ngành công nghiệp ô tô trong nước, Trung quốc đã cho những điều chỉnh chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi và ưu tiên thu hút FDI vào các lĩnh vực CNHT cho ngành công nghiệp ô tô.
Trung Quốc thiết lập các chính sách khuyến khích quá trình học hỏi công nghệ, và chuyển từ liên kết ngang (theo chiều rộng) sang liên kết dọc (theo chiều sâu) trong chuỗi giá trị ngành công nghiệp ô tô nội địa. Để tận dụng lợi thế thị trường và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, Trung Quốc không áp dụng các biện pháp hạn chế tiêu dùng nội địa. Ngược lại, Trung Quốc khuyến khích các doanh nghiệp trong ngành sản xuất và lắp ráp ô tô ở Trung quốc tiêu thụ trong thị trường nội địa, ban hành chính sách hạn chế nhập khẩu ô tô sản xuất ở nước ngoài. Vì vậy, Trung Quốc đã thu hút được nhiều tập đoàn sản xuất ô tô nước ngoài đầu tư trực tiếp vào thị trường Trung quốc.
Cùng với đó, Trung Quốc còn ban hành và áp dụng nhiều chính sách khuyến khích và thúc đẩy phát triển thị trường linh kiện, phụ tùng ô tô nội địa rộng lớn, và kết nối các nhà sản xuất trong nước. Trung Quốc khuyến khích các hãng trong nước thực hiện liên kết, liên doanh với các hãng lớn nước ngoài, kết nối các DNNVV cung cấp phụ tùng, linh kiện nội địa.
Trung Quốc xây dựng và khuyến khích áp dụng các chương trình thúc đẩy phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô nội địa. Trung Quốc cho phép các hãng ô tô nước ngoài tham gia chương trình thúc đẩy phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô ở Trung Quốc thông qua việc thiết lập các tiêu chí lựa chọn. Theo đó, các hãng lớn nước ngoài có thể đưa ra chính sách và tập hợp các tiêu chí lựa chọn đối tác là các hãng trong nước có đủ điều kiện để sản xuất cung cấp linh kiện, phụ tùng cho họ.
Khi được lựa chọn, các doanh nghiệp trong nước này sẽ được hỗ trợ toàn diện, và được tăng cường năng lực sản xuất để có thể trở thành một mắt xích tham gia trong mạng sản xuất của hãng. Chẳng hạn, vào năm 1997, tập đoàn GM đã đặt ra các tiêu chí lựa chọn 1- 2 nhà cung cấp linh kiện, phụ tùng của Trung Quốc dựa trên các quy định đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng, dịch vụ, công nghệ và giá cả, phù hợp với hoạt động thực tế với quy mô toàn cầu của họ. Điều này tạo ra những cơ hội rất lớn cho các hãng nội địa Trung Quốc học hỏi công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng sản phẩm và tham gia vào chuỗi giá trị ngành ô tô toàn cầu.
Trung Quốc sử dụng doanh nghiệp nhà nước (DNNN) như một công cụ trong chiến lược phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô nội địa. Các DNNN lớn vừa tham gia vào trong các liên doanh lắp ráp và vừa đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất linh kiện, phụ tùng ô tô. Các hãng liên doanh đóng vai trò tăng cường khả năng thích nghi và chuyên sâu hơn của các cơ sở sản xuất trong nước để cung cấp cho các hãng nước ngoài. Khoảng hơn 100 nhà máy liên doanh ở Thượng Hải cung cấp linh kiện cho các hãng ô tô lớn nước ngoài đã được thành lập.
Các hãng liên doanh này thường tập trung trong một khu vực địa lý nhất định đã tạo ra lợi thế lớn trong việc giảm thiểu chi phí giao dịch và rút ngắn thời gian cung cấp.
Trung Quốc xây dựng và phát triển mạnh các cụm công nghiệp tập trung các ngành CNHT nhằm giảm thiểu chi phí giao dịch, thúc đẩy quá trình học hỏi và chuyển giao công nghệ, và cuối cùng cải thiện năng lực cạnh tranh chung của toàn ngành. Trung Quốc đã phát triển các vùng (cụm) tập trung cho CNHT cho ngành công nghiệp ô tô. Bên cạnh đó, Trung Quốc đã thúc đẩy sự hình thành và phát triển các khu thương mại để thúc đẩy trao đổi hàng hóa với vai trò là các chợ đầu mối cho các cụm CNHT phát triển.
Sự phát triển của các doanh nghiệp liên doanh kéo theo nhu cầu về các chi tiết, phụ tùng, linh kiện từ các nhà thầu phụ là các DNNVV khác. Qua đó, các hãng nội địa của Trung Quốc dần tham gia vào chuỗi giá trị ngành công nghiệp ô tô toàn cầu.
Trung Quốc tạo một môi trường thuận lợi cho các DNNVV khu vực tư nhân tham gia vào CNHT cho ngành công nghiệp ô tô trong mạng sản xuất địa phương. Bên cạnh việc thu hút các hãng ô tô nước ngoài đầu tư, Trung Quốc ban hành nhiều chính sách hỗ trợ và khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào sản xuất linh kiện, phụ tùng ô tô và cơ khí.
Những chính sách ưu đãi về thuế, hỗ trợ tín dụng và nhiều biện pháp khác khuyến khích các hãng nước ngoài sử dụng các linh kiện sản xuất tại địa phương có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của CNHT cho ngành công nghiệp ô tô. Chính phủ Trung Quốc cũng khuyến khích các liên doanh cho ra đời những chiếc ô tô mang thương hiệu địa phương và điều này đã góp phần tạo nên sự gắn kết giữa doanh nghiệp nội địa với doanh nghiệp nước ngoài, trong đó các doanh nghiệp lớn đóng vai trò trung tâm thu hút liên kết và thực hiện chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp vệ tinh địa phương.
Trung Quốc chú trọng chính sách phát triển nguồn nhân lực cho phát triển CNHT. Để nhanh chóng làm chủ công nghệ trong ngành công nghiệp ô tô và hướng tới nội địa hóa CNHT cho ngành công nghiệp ô tô, Trung Quốc đã không ngừng tìm kiếm, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cả trong và ngoài nước. Trung Quốc thực hiện các chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ lực lượng kỹ sư kỹ thuật Hoa kiều đông đảo về làm việc trong CNHT cho ngành công nghiệp ô tô trong nước. Trung Quốc cũng triển khai chương trình đào tạo kỹ sư quốc tế giúp các nhà sản xuất chế tạo được các loại động cơ công nghệ cao, đạt tiêu chuẩn Euro IV, tiêu chuẩn khí thải cao nhất hiện nay. Tuyển chọn sinh viên học ở Mỹ và các nước có ngành công nghiệp ô tô phát triển về nước. Đặc biệt, Trung Quốc đưa ra các chính sách hấp dẫn nhằm thu hút các chuyên gia, kỹ sư cao cấp từ các hãng lớn trên thế giới.
Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan là một trong những nước tích cực nhất trong phát triển CNHT ở khu vực ASEAN. Sự định hướng tới phát triển CNHT ở Thái Lan được thúc đẩy sớm, từ đầu những năm 1990. Hiện nay, Thái Lan có một ngành công nghiệp ô tô lớn mạnh với mạng lưới CNHT cho ngành công nghiệp ô tô phát triển. Quá trình phát triển chính sách đối với CNHT cho ngành công nghiệp ô tô của Thái Lan có thể chia thành 4 giai đoạn.
Giai đoạn đầu, từ 1960-1970: Thái Lan xác định chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô thành một ngành kinh tế trọng điểm. Đầu những năm 1960, Thái Lan đã chủ trương ưu tiên phát triển ngành công nghiệp ô tô thành một ngành kinh tế trọng điểm. Thời điểm này, các ngành công nghiệp Thái Lan nói chung và ngành công nghiệp ô tô nói riêng còn khá nhỏ bé, số lượng các doanh nghiệp công nghiệp trong nước không nhiều và chủ yếu là các DNNVV với năng lực sản xuất thấp, công nghệ lạc hậu. Mặc dù Chính phủ đã cố gắng tập trung nguồn lực vào xây dựng và phát triển ngành công nghiệp ô tô nhưng cho đến 1970 năng lực ngành công nghiệp ô tô và các cơ sở sản xuất ô tô ở Thái Lan vẫn chưa được cải thiện đáng kể. Động thái tích cực nhất của chính phủ Thái Lan trong thời kỳ này là đưa ra chính sách thu hút FDI, đặc biệt là từ các hãng ô tô lớn trên thế giới.
Giai đoạn 2, từ 1971 – 1986: Thái Lan xây dựng nền tảng cho sự phát triển các CNHT cho ngành sản xuất ô tô và chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho phát triển ngành công nghiệp ô tô trong những giai đoạn tiếp theo. Đầu thập kỷ 1980, được sự hỗ trợ của Nhật Bản, chính phủ Thái Lan đã điều chỉnh và xây dựng chiến lược toàn diện cho phát triển ngành công nghiệp ô tô. Đặc trưng cơ bản của thời kỳ này là Thái Lan đẩy mạnh thu hút FDI vào các ngành CNHT và công nghiệp ô tô cùng với việc gỡ dần bảo hộ thị trường nội địa thông qua các quy định chặt chẽ về tỷ lệ nội địa hóa trong công nghiệp ô tô.
Năm 1972, Chính phủ Thái Lan ban hành chính sách nội địa hóa, yêu cầu các hãng sản xuất ô tô nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Thái Lan phải mua các chi tiết, linh kiện sản xuất tại địa phương. Mục tiêu của chính sách nội địa hóa này là nhằm tăng dần năng lực sản xuất chi tiết, linh kiện ô tô của các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp Thái Lan lúc đó là các DNNVV, trình độ công nghệ thấp, năng lực quản lý yếu kém, và do đó chưa đủ năng lực cung cấp chi tiết, linh kiện, phụ tùng đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật của các hãng ô tô nước ngoài. Vì vậy, phần lớn doanh nghiệp FDI phải nhập chi tiết, linh kiện, phụ tùng từ các hãng sản xuất ở nước ngoài hoặc kéo theo các doanh nghiệp vệ tinh của họ. Sau đó, Thái Lan đã phải điều chỉnh và thực hiện chính sách linh hoạt hơn bằng cách cho phép các công ty lắp ráp ô tô chọn mua các bộ phận, chi tiết được sản xuất tại địa phương.
Tuy nhiên, do quy mô thị trường nhỏ, chính sách nội địa hóa không đạt được kết quả như mong đợi cho nên thay vì tập trung nguồn lực cho phát triển ngành công nghiệp ô tô, Thái Lan đã chuyển hướng sang xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng thúc đẩy phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô, và thực hiện các chính sách phát triển ngành công nghiệp ô tô theo hướng mềm dẻo hơn.
Chính phủ Thái Lan cho phép thành lập các khu (cụm) công nghiệp tập trung tại Bangkok và các tỉnh phụ cận khu vực miền trung, ban hành các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư vào các khu (cụm) công nghiệp này. Bên cạnh đó, thay vì quy định ngặt về tỷ lệ nội địa hóa, Thái Lan thực hiện chính sách theo hướng linh hoạt hơn thông qua việc yêu cầu các hãng phải đạt các chỉ tiêu về tỷ lệ nội địa hóa theo lộ trình. Những chính sách này đã tạo ra một làn sóng mới đầu tư vào phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô.
Nhu cầu về linh kiện, phụ tùng ô tô tăng nhanh, trong khi các doanh nghiệp Thái Lan chưa đủ năng lực đáp ứng, để đạt tỷ lệ nội địa hóa theo đúng quy định, các hãng FDI đã kéo thêm các doanh nghiệp vệ tinh của họ để có thể cung cấp các chi tiết, linh kiện, phụ tùng đáp ứng các yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng. Sự gia tăng của các doanh nghiệp FDI cũng khuyến khích sự xuất hiện của các nhà thầu phụ Thái Lan tham gia vào mạng sản xuất.
Một đặc điểm chính sách khác đáng chú ý của Thái Lan là ngay trong thời gian này Chính phủ Thái Lan đã đặc biệt chú trọng tới việc hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV trong nước tham gia vào mạng sản xuất chi tiết, phụ tùng, linh kiện ô tô, khuyến khích và hỗ trợ DNNVV nâng cao năng lực sản xuất đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Kết quả là Thái Lan đã hình thành được các cụm công nghiệp ô tô tại Bangkok và các tỉnh miền trung như tỉnh Smaut Parakan. Bên cạnh đó, Thái Lan còn khuyến khích phát triển cụm công nghiệp ở các làng xã và thị trấn nhỏ.
Chính phủ Thái Lan đã xây dựng chương trình làng nghề truyền thống. Các làng nghề truyền thống sẽ chọn ra một sản phẩm truyền thống có năng lực cạnh tranh để chuyên môn hóa sản xuất. Chính phủ sẽ hỗ trợ và tạo điều kiện kết nối các sản phẩm phẩm đó với các công ty trong CNHT và công nghiệp ô tô.
Giai đoạn 3, từ 1987-1999. Giai đoạn tăng trưởng nhanh của ngành công nghiệp ô tô ở Thái Lan. Thái Lan tận dụng nguồn lực ngoại để đẩy nhanh tốc độ phát triển và phát triển hài hòa công nghiệp ô tô và các ngành CNHT cho ngành công nghiệp ô tô. Trong bối cảnh cạnh tranh trong ngành ô tô trên thế giới diễn ra rất gay gắt, đặc biệt là yêu cầu cắt giảm chi phí để giảm giá bán, nhiều hãng ô tô lớn đã chuyển dịch một số khâu sản xuất đến các nước đang phát triển nơi có chi phí nhân công rẻ hơn để hạ giá thành sản xuất. Nắm bắt xu thế này, Thái Lan đã điều chỉnh chiến lược và chính sách để nắm bắt cơ hội.
Chính phủ có những chính sách ưu đãi, xây dựng một môi trường đầu tư đáng tin cậy để thu hút các hãng ô tô lớn của Nhật Bản, Mỹ và châu Âu. Cùng với tổ chức JICA của Nhật Bản, Thái Lan tiếp tục xây dựng và triển khai quy hoạch tổng thể phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô. Thái Lan đã thành lập các khu công nghiệp ở các tỉnh phía bắc và phía đông, phát triển hệ thống đường cao tốc và cơ sở hạ tầng giao thông, cảng biển v.v... tại khu vực phía đông và đông bắc.
Nhiều dự án sản xuất ô tô và phụ tùng ô tô đã được thành lập ở đây, hình thành các cụm công nghiệp ô tô mới. Nhờ đó, Thái Lan đã thành công trong việc thu hút các nhà đầu tư vào CNHT cho ngành công nghiệp ô tô ở các vùng (cụm) công nghiệp miền đông. Đầu tư vào CNHT cho ngành công nghiệp ô tô đã có sự lan tỏa từ miền trung sang miền bắc và miền đông Thái Lan trong những năm 1990. Các mạng sản xuất CNHT cho ngành công nghiệp ô tô tiếp tục được mở rộng.
Các doanh nghiệp sản xuất ô tô của châu Âu và Mỹ (ví dụ như, AAT, GM và BMW) đầu tư tại Rayong (vùng ven biển phía đông). Các công ty của Nhật Bản tập trung ở Chonburi với nhà sản xuất lắp ráp ô tô chính Mishubishi và các nhà cung cấp trong khu công nghiệp Laem Cha Bang, Denso, Siam Toyota và các doanh nghiệp sản xuất linh kiện khác trong khu công nghiệp Chonburi. Các công ty Nhật Bản mở rộng thêm nhiều nhà máy và tăng quy mô sản xuất tại Thái Lan.
Các công ty này đã tổ chức sản xuất dưới dạng vệ tinh, mời các doanh nghiệp Thái Lan tham gia cung ứng và đặt các doanh nghiệp này xung quanh nhà máy lắp ráp của họ để hình thành các mạng sản xuất. Các nhà lắp ráp này hợp tác chặt chẽ với nhau, đặc biệt là thông qua Chương trình khuyến khích sản xuất động cơ diesel buộc các nhà lắp ráp động cơ sử dụng các bộ phận động cơ được sản xuất tại địa phương đáp ứng các yêu cầu về chất lượng theo đúng tiêu chuẩn của các nhà lắp ráp và được kiểm nghiệm đánh giá nghiêm ngặt.
Nói chung, Chính phủ Thái Lan đã xây dựng các chương trình phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô cụ thể. Ví dụ như, chính phủ đặt mục tiêu nội địa hóa động cơ diesel ở mức 20% vào năm 1989. Để bảo hộ CNHT cho ngành công nghiệp ô tô non trẻ trong nước, Thái Lan đã mở rộng các hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu các loại đầu vào như bộ tản nhiệt, pin, ống xả, săm lốp, kính an toàn, trống phanh và phanh đĩa.
Mặt khác, Thái Lan cũng thực hiện các chương trình hỗ trợ và xúc tiến phát triển CNHT và được chia làm 4 giai đoạn: 1992–1993 (phát triển cơ sở dữ liệu để hỗ trợ liên kết ngành tập trung vào ngành điện tử, ô tô, máy móc thiết bị và đào tạo nhà cung cấp), 1993–1994 (hỗ trợ kỹ thuật, tổ chức hội thảo và kết nối doanh nghiệp), 1994–1995 (phát triển cơ sở dữ liệu, đào tạo và tham gia các hội chợ thương mại quốc tế), 1995–1997 (tham gia hội thảo quốc tế và tổ chức hội chợ).
Năm 1994, khởi xướng Chương trình phát triển các nhà cung cấp quốc gia nhằm điều phối của các chương trình liên quan, cung cấp dịch vụ và thông tin cho các nhà cung cấp hoạt động trong CNHT cho ngành công nghiệp ô tô. Có thể nói giai đoạn này là giai đoạn cất cánh của ngành công nghiệp ô tô Thái Lan. CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Thái Lan đã có những bước tiến vượt bậc. Các hãng sản xuất ô tô hàng đầu thế giới của Nhật Bản và Mỹ như Mitshubishi, Toyota và Auti Alliance (liên doanh giữa Ford và Mazda), General Motor và Isuzu đã quyết định sử dụng Thái Lan làm điểm đầu tư phát triển sản xuất và hợp tác của họ.
Giai đoạn từ năm 2000 đến nay, Thái Lan tiếp tục đẩy mạnh phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô, khuyến khích xuất khẩu, tái khẳng định vị thế hàng đầu trong phát triển CNHT và công nghiệp ô tô trong khu vực ASEAN. Những chính sách và biện pháp trong những giai đoạn trước đã thúc đẩy sự liên kết giữa các công ty lắp ráp ô tô và các công ty nước ngoài hoạt động trong CNHT cho ngành công nghiệp ô tô đã đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ từ các công ty nước ngoài cho các doanh nghiệp Thái Lan hoạt động trong lĩnh vực CNHT cho ngành công nghiệp ô tô. Nhờ đó năng lực công nghệ và năng lực sản xuất của các doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô trong nước được cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên, khác với Nhật Bản, đặc trưng của các mạng sản xuất ô tô Thái Lan là các doanh nghiệp hoạt động trong CNHT cho ngành công nghiệp ô tô cung cấp cho nhiều mạng sản xuất. Trong đó, đứng đầu là các hãng ô tô nổi tiếng trên thế giới, theo sau là các doanh nghiệp FDI sản xuất phụ tùng, và cuối cùng là các DNNVV Thái Lan hoạt động xung quanh như những vệ tinh cho các nhà lắp ráp hoặc các nhà sản xuất phụ tùng. Nói chung, từ năm 2000 đến nay, ngành công nghiệp ô tô Thái Lan tiếp tục phát triển ổn định, tập trung cao ở các khu công nghiệp Bangkok và miền đông Thái Lan.
Trong giai đoạn này, Chính phủ Thái Lan đặc biệt quan tâm tới việc đẩy mạnh phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô định hướng xuất khẩu, đẩy mạnh tự do hóa, xóa bỏ các rào cản về tỷ lệ nội địa hóa, quy định xuất xứ sản phẩm.
Kinh nghiệm của Malaixia
Mặc dù cho đến những năm 1980 Malaixia mới bắt đầu tập trung vào phát triển CNHT, sau 20 năm Malaixia đã trở thành một quốc gia có nền CNHT phát triển tương đối hoàn thiện. Kết quả này là do Malaixia thực hiện chiến lược phát triển CNHT có chọn lọc thông qua các chính sách định hướng phát triển ngành rõ rệt, ưu tiên, tập trung và ưu tiên nguồn lực vào phát triển một số ngành quan trọng và có lợi thế cạnh tranh, bao gồm các ngành công nghiệp chế tạo, điện, điện tử và ô tô. Chính quyền Malaixia đã thực hiện nhiều chính sách ưu đãi, đặc biệt là miễn thuế cho các hoạt động chế tạo máy móc và linh kiện.
Bên cạnh chính sách ưu tiên phát triển ngành có chọn lọc, Malaixia thu hút FDI vào các ngành định hướng xuất khẩu, khuyến khích phát triển các vùng (cụm) công nghiệp, thiết lập các mạng lưới sản xuất. Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là phát triển và liên kết giữa các vùng (cụm) công nghiệp là một trong hai chương trình chính hướng tới phát triển ngành công nghiệp chế tạo ở Malaixia.
Với nguồn vốn FDI, Malaixia ưu tiên các hoạt động sản xuất để xuất khẩu, trong đó lĩnh vực điện và điện tử được đặc biệt ưu tiên. Từ 1980 đến 2004, Malaixia quy định tỷ lệ kiểm soát vốn đầu tư của các công ty nước ngoài theo tỷ trọng xuất khẩu. Các công ty nước ngoài chỉ được nắm 100% vốn nếu có 80% giá trị sản phẩm xuất khẩu và sản xuất sử dụng công nghệ tiên tiến mà Chính phủ đang khuyến khích.
Malaixia chủ trương phát triển nền công nghiệp hỗ trợ dựa trên nền tảng là các DNNVV. Chính phủ hỗ trợ tích cực và sử dụng có hiệu quả FDI cùng với việc triển khai các chương trình cụ thể trong từng giai đoạn để khuyến khích DNNVV tham gia vào CNHT cho ngành công nghiệp ô tô. Với sự hỗ trợ của Chính phủ, khoảng trên 1000 DNNVV đã tham gia vào CNHT cho ngành công nghiệp ô tô trong các ngành nhựa, đột dập, chế tạo khuôn mẫu, dụng cụ, đồ gá lắp, xử lý bề mặt, v.v... Malaixia triển khai một chương trình quốc gia đáng chú ý là chương trình phát triển doanh nghiệp cung ứng (VDP) với mục đích là kết nối DNNVV với các doanh nghiệp lớn, và tạo ra một thị trường sản phẩm mà trong đó các DNNVV Malaixia có thể trở thành các nhà chế tạo và cung ứng đáng tin cậy.
Chương trình này được thiết kế riêng cho các ngành khác nhau, trong đó một hãng nội địa lớn sẽ đóng vai trò trung tâm. Hãng này chịu trách nhiệm tổ chức sản xuất, đặt ra các yêu cầu về chuẩn mực và hỗ trợ DNNVV địa phương trở thành một mắt xích trong chuỗi cung ứng. Theo sáng kiến của Bộ Công nghiệp và Thương mại, từ 1988 Malaixia bắt đầu thực hiện chương trình phát triển các nhà cung ứng linh kiện cho ngành công nghiệp sản xuất ô tô (Proton – Protio Components Scheme), và năm 1992 bắt đầu thực hiện kế hoạch phát triển linh kiện điện và điện tử.
Chính phủ Malaixia cũng nỗ lực trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu, tăng cường trao đổi thông tin. Malaixia đã triển khai chương trình “Trao đổi hợp đồng thầu phụ” nhằm khuyến khích phát triển DNNVV trong các ngành công nghiệp ô tô, chế biến cao su, chế tạo thiết bị điện và điện tử, nhựa, v.v… Với cơ sở dữ liệu được cung cấp, các DNNVV có thể tìm hiểu nhu cầu của các công ty lớn để xác định hướng hành động.
Riêng với ngành công nghiệp ô tô, Malaixia thực hiện chính sách bảo hộ cao với mục tiêu là xây dựng ngành công nghiệp ô tô độc lập, có tính cạnh tranh cao, và có thể sản xuất những dòng xe riêng. Ngay từ năm 1985, Chính phủ Malaixia đã thực hiện kiểm soát và bảo hộ nền sản xuất ô tô non trẻ trong nước. Thung lũng công nghệ Kelang được hình thành trong đó ưu tiên phát triển ngành công nghiệp ô tô. Hoạt động sản xuất ô tô và CNHT cho ngành công nghiệp ô tô được bảo hộ mạnh mẽ bởi chương trình quốc gia về linh kiện, phụ kiện được triển khai năm 1988...
Mặc dù vậy, kết quả lại không được như mong đợi. Malaixia có CNHT nói chung tương đối phát triển nhưng riêng ngành công nghiệp ô tô và CNHT cho ngành công nghiệp ô tô được đánh giá là còn khá yếu. Sau gần 2 thập kỷ, Malaixia phát triển được 04 hãng xe, và nổi tiếng nhất là Proton và Perodua. Về cơ bản, CNHT cho ngành công nghiệp ô tô dưới sự bảo hộ của nhà nước có thể cung cấp các linh kiện, bộ phận cho các hãng xe hơi trong nước, có khả năng sản xuất cung cấp những linh kiện, phụ tùng cho 1 chiếc xe hoàn chỉnh.
Tuy nhiên, nó chỉ có thể đáp ứng được nhu cầu nội địa với đòi hỏi chất lượng thấp. Hệ thống CNHT cho ngành công nghiệp ô tô của Malaixia chủ yếu tồn tại dựa trên chính sách bảo hộ của nhà nước. Mặc dù Chính phủ Malaixia đã nỗ lực phát triển nhà cung cấp linh kiện, phụ kiện và tăng cường liên kết công nghiệp giữa các doanh nghiệp trong CNHT cho ngành công nghiệp ô tô trong nước nhưng vẫn chưa có đủ khả năng liên kết và tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất ô tô toàn cầu. Nói chung, chiến lược bảo hộ nhằm phát triển ngành công nghiệp ô tô trong nước của Chính phủ Malaixia đã không đạt mục tiêu như mong đợi.
Gần đây Chính phủ Malaixia đã có những điều chỉnh đáng kể trong chính sách và chiến lược phát triển. Chính sách bảo hộ sản xuất ô tô trong nước đã được gỡ bỏ và thay vào đó là khuyến khích cạnh tranh và hướng tới tự do hóa đối với ngành công nghiệp ô tô. Trong tầm nhìn đến 2020, Chính phủ Malaixia điều chỉnh mạnh trong các chính sách thúc đẩy CNHT, cụ thể hóa hơn và mở rộng các biện pháp nhằm tăng cường năng lực cho các nhà cung cấp trong ngành công nghiệp ôtô.
Luật mới cho phép người nước ngoài sở hữu tới 100% các nhà máy sản xuất xe hybrid, xe điện và các mẫu xe Sedan cỡ trung và lớn. Chiến lược mới này nhằm thu hút các nhà sản xuất xe châu Âu như Volkswagen, Renault, Peugeot và Volvo. Tuy nhiên, quá trình này sẽ khiến cho các hãng sản xuất ô tô nội địa khó khăn hơn, do phải cạnh tranh với những đối thủ nước ngoài mạnh hơn rất nhiều.
Tham khảo:
Kỳ I: Công nghiệp hỗ trợ trong mối tương quan với ngành công nghiệp
Kỳ II: Vai trò quan trọng của CNHT trong sự phát triển ngành ô tô
Kỳ III: Tác động của các chính sách đến việc phát triển CNHT cho ngành ô tô ở Việt Nam
Kỳ IV: Thực trạng phát triển của CNHT ngành ô tô Việt Nam
Kỳ V: Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại của CNHT cho ngành ô tô tại Việt Nam