Hội nghị toàn quốc đánh giá thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 16/2007/NQ-CP: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
Hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới
Ngay sau khi Nghị quyết 08 và Nghị quyết 16 được ban hành, Chính phủ (đầu mối là Nạp Tiền 188bet với sự tham gia của Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế) đã chủ động hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương trong việc triển khai và theo dõi tình hình thực hiện. Nạp Tiền 188bet đã thường xuyên có báo cáo Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về tình hình triển khai, thực hiện Nghị quyết. Quá trình thực hiện Nghị quyết cũng đã có sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, có sự đồng thuận và nghiêm túc chuẩn bị và triển khai của các Bộ, ngành và địa phương. Việc thực hiện 12 nhóm nhiệm vụ trong Nghị quyết 16 đều mang lại nhiều kết quả tích cực.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tổng kết Hội nghị |
Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã nêu bật những kết quả tích cực nổi bật của việc thực hiện Nghị quyết 08 và Nghị quyết 16, góp phần tạo nền tảng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Về tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về hội nhập kinh tế quốc tế. Với nhiều biện pháp chủ động và tích cực phối hợp giữa các bộ, ngành với các cơ quan thông tin đại chúng để tuyên truyền về đường lối hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, về ý nghĩa của việc gia nhập WTO cũng như cơ hội, thách thức của việc gia nhập WTO nói riêng và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung đã tạo ra được sự đồng thuận trong xã hội về chủ trương hội nhập quốc tế của Đảng, nhận thức chung của xã hội về việc gia nhập WTO là đúng đắn.
Về bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới; hình thành nhanh và đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Đến nay, về cơ bản đã hình thành được một hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, đồng bộ và tương thích với quy định của WTO, tạo ra môi trường kinh doanh ngày càng bình đẳng, minh bạch và dễ dự đoán hơn.
Về công tác xây dựng và phát triển đồng bộ các yếu tố kinh tế thị trường. Nhờ thể chế được hoàn thiện một bước, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường tài chính, tiền tệ, chính sách giá, thị trường khoa học - công nghệ đã có bước phát triển tích cực. Cải cách hành chính được đẩy mạnh, hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước được cải thiện. Cải cách thể chế hành chính đã đạt được kết quả tương đối thành công về xây dựng và điều chỉnh thể chế quản lý hành chính nhà nước trong điều kiện chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm qua, đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển kinh tế - xã hội và hoạt động của các cơ quan trọng hệ thống hành chính nhà nước các cấp. Đã có bước chuyển tích cực và đáng kể trong quản lý, sử dụng cán bộ công chức.
Về nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh đã được thành lập và đi vào hoạt động. Nhiều giải pháp để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội đã được thực hiện mang lại kết quả tích cực. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh phụ thuộc rất nhiều vào các lĩnh vực khác như hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính, chính sách kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học công nghệ ... Do vậy, chỉ khi có sự chuyển biến tích cực trong các lĩnh vực này, năng lực cạnh tranh của quốc gia mới có cơ hội được cải thiện. Chúng ta bước đầu đã tận dụng được cơ hội do việc gia nhập WTO đem lại để khai thác, huy động được nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước, cả trực tiếp và gián tiếp, cho đầu tư phát triển, tận dụng được cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và lao động và đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài. Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước ở các cấp, các ngành có thêm nhiều kinh nghiệm quản lý nền kinh tế thị trường cũng như kinh nghiệm ứng phó với những tác động từ bên ngoài vào nền kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Những thành tựu mà nền kinh tế Việt Nam đạt được trong 5 năm qua là rất đáng ghi nhận. Kinh tế vẫn tiếp tục tăng trưởng, quy mô nền kinh tế tăng lên và nước ta đã ra khỏi tình trạng nước kém phát triển. Mặc dù bối cảnh quốc tế có nhiều biến động khó lường, tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu còn dai dẳng nhưng nền kinh tế nước ta về cơ bản đã vượt qua không chỉ một mà hai giai đoạn khó khăn trong 5 năm qua. Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, cơ cấu mặt hàng có những thay đổi theo hướng tích cực. Cùng với đẩy mạnh xuất khẩu thì thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng có những bước tiến đáng kể. Nét mới của FDI đăng ký và thực hiện trong thời kỳ 2007 - 2011 là có nhiều dự án lớn. Sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục được duy trì, tạo tiền đề cho việc bảo đảm đời sống của nông dân và giữ vững ổn định xã hội. Nhiều ngành kinh tế đã đứng vững trong cạnh tranh khi ta mở cửa với bên ngoài theo cam kết gia nhập WTO. Các ngành như viễn thông, dịch vụ tài chính, dịch vụ phân phối, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp ... đã chứng tỏ được khả năng cạnh tranh của mình trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Về bổ sung nguồn lực và tăng cường chỉ đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn. Chúng ta đã có nhiều chính sách, quy định được ban hành để khơi dậy và khai thác tiềm năng phát triển nông nghiệp, nông thôn, thu được nhiều kết quả tích cực. Sản xuất nông nghiệp liên tục tăng trưởng với tốc độ ổn định và phát triển tương đối toàn diện trên các lĩnh vực. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực, tỷ trọng ngành trồng trọt giảm, chăn nuôi tăng, nhiều làng nghề khôi phục và phát triển, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nông nghiệp, nông thôn được thành lập tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho nông dân.
Về giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình thực thi các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới. Có thể nói, kết quả từ những chính sách, quy định được Chính phủ và các Bộ, ngành xây dựng và ban hành đã phát huy được hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng công tác bảo đảm an sinh xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập. Công tác giảm nghèo tiếp tục được chú trọng, các chương trình giảm nghèo được thực hiện có hiệu quả. Đã thực hiện việc mở rộng đối tượng và tăng mức trợ cấp cho các đối tượng bảo trợ xã hội; hệ thống bảo hiểm xã hội và trợ cấp bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng và hoàn thiện. Bảo đảm an sinh xã hội là tiến bộ nổi bật trong 5 năm qua, không chỉ thể hiện trong từng kết quả cụ thể mà trở thành một quan điểm xuyên suốt, gắn kết chặt chẽ với kế hoạch phát triển, được triển khai đồng bộ với nhiều chính sách và nguồn lực thực hiện, được xã hội và quốc tế đồng tình, đánh giá cao.
Về các chính sách bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc. Chúng ta đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, đã có nhiều chuyển biến tích cực. Vấn đề giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được coi trọng; nhiều hoạt động trên lĩnh vực này đã gây được những ấn tượng tốt đẹp, như việc tổ chức thành công nhiều sự kiện văn hóa các dân tộc. Lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc đã có những bước tiến mới. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được công nhận là Di sản thế giới. Tình trạng xâm phạm di tích, “chảy máu” cổ vật đã được ngăn chặn.
Về giải quyết tốt các vấn đề môi trường trong quá trình phát triển. Phát triển đi đôi với bảo vệ môi trường được xác định vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc trong quá trình phát triển và trở thành một quan điểm quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Nhiều cơ chế, chính sách về bảo vệ môi trường đã được xây dựng. Hệ thống quan trắc và phân tích môi trường từng bước được hình thành và củng cố. Công tác thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm soát môi trường được cải thiện.
Về giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập. Song song với việc phát triển kinh tế và ổn định xã hội, công tác an ninh - quốc phòng của Việt Nam tiếp tục được bảo đảm, qua đó giữ vững ổn định chính trị, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu và khả năng sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc tổ quốc.
Về hoàn thiện các thiết chế dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng. Việc hoàn thiện thiết chế dân chủ đã đi vào cuộc sống và đã đạt được mục tiêu mở rộng và phát huy dân chủ nhân dân thông qua hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, khắc phục tình trạng mất dân chủ, lợi dụng dân chủ; phát huy dân chủ đi đôi với giữ gìn kỷ luật, kỷ cương, quyền lợi đi đôi với trách nhiệm.
Bên cạnh những thành quả đạt được, Hội nghị cũng chỉ rõ quá trình phát triển của đất nước trong giai đoạn đầu sau khi gia nhập WTO cũng đã bộc lộ một số hạn chế, yếu kém cần phấn đấu khắc phục trong thời gian tới: Thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy đã có những chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, đôi khi lúng túng trong việc xác định hướng đi. Sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm của ta mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn yếu so với các nước, kể cả các nước trong khu vực. Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần làm bộc lộ những yếu kém cơ bản của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế và chất lượng tăng trưởng vẫn chưa được cải thiện về căn bản. Hiệu quả đầu tư chưa cao như mong muốn. Tăng trưởng của ta thời gian qua phần nhiều dựa vào các yếu tố vốn, lao động rẻ mà thiếu sự đóng góp đáng kể của việc gia tăng năng suất lao động hay hàm lượng tri thức. Tuy nhiên, đây là các vấn đề mang tính dài hạn, khó có thể tạo biến chuyển ngay trong vòng 5 năm thực hiện Nghị quyết. Khả năng nhận định, đánh giá và dự báo trước tình hình diễn biến trên thực tế để chủ động xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết còn nhiều hạn chế.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tác động và kết quả không mong muốn nêu trên. Các nguyên nhân khách quan bao gồm tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008; những hạn chế và yếu kém nội tại và cố hữu của nền kinh tế về chất lượng tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, năng lực thể chế, chất lượng nguồn nhân lực, năng lực kết cấu hạ tầng, nội lực của khu vực doanh nghiệp trong nước. Đồng thời, cũng phải kể đến các nguyên nhân chủ quan như: mặc dù đã nhận thức được tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế nhưng chưa thành công trong việc lồng ghép đầy đủ vào các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chưa thực sự chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và chưa lường trước được hết những thách thức và tác động phức tạp của quá trình này. Các doanh nghiệp cũng chưa nâng cao được đáng kể năng lực cạnh tranh, chưa khai thác tối đa cơ hội về đầu tư, mở rộng và tiếp cận thị trường xuất khẩu. Thông tin, tuyên truyền về hội nhập kinh tế quốc tế đến doanh nghiệp chưa thật sự kịp thời, thiết thực; trong khi sự tham gia của doanh nghiệp, người dân vào tiến trình hoàn thiện thể chế và chính sách hội nhập kinh tế quốc tế còn chưa được thông suốt.
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới trong bối cảnh khu vực và quốc tế có nhiều thay đổi. Để thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ đạo nhiều biện pháp:
Cả nước cần tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phát huy sức mạnh toàn dân thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh, bền vững, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, giữ vững ổn định chính trị xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế đi đôi với bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, tạo nền tảng vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn tiếp theo. Cùng với phát triển kinh tế, phải phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu để phát triển bền vững. Có thể nói, nhiệm vụ đặt ra cho giai đoạn tới rất nặng nề.
Về hội nhập quốc tế, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng như Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương trình Đại hội Đảng lần thứ XI đã nêu rõ chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Để thực hiện chủ trương này, chúng ta phải quán triệt quan điểm “xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng” và định hướng “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước” nêu ra trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020. Nhấn mạnh quan điểm này là hết sức cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Tiềm lực kinh tế của đất nước, lực lượng doanh nghiệp trong nước có mạnh, thì nền kinh tế mới vững, vị thế trong hội nhập mới cao. Càng hội nhập có hiệu quả, chúng ta càng có điều kiện thuận lợi để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Trong bối cảnh và định hướng nêu trên, quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới cần bám sát các chủ trương lớn sau đây:
Một là, quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn tới cần đặt trong bối cảnh thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011- 2020.
Hai là, cần tăng cường, quán triệt nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế trong toàn Đảng, toàn dân. Phải coi hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập kinh tế quốc tế, là sự nghiệp của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Nhân dân là chủ thể của hội nhập, người được hưởng thành quả và cũng là người chịu tác động từ hội nhập.
Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế cần gắn kết hơn nữa với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội trong nước để nâng cao hiệu quả và tăng cường sự thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau vì mục tiêu phát triển chung. Trên cơ sở đó, cần tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế để góp phần cải thiện đáng kể năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy tiến trình tái cấu trúc và đổi mới mô hình tăng trưởng, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao, tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.
Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế cần được đặt trong mối quan hệ hài hòa với hội nhập trong các lĩnh vực khác nhưng hội nhập kinh tế quốc tế phải là trọng tâm, là nội dung chính, quan trọng nhất của tiến trình hội nhập. Hội nhập kinh tế quốc tế cần đi trước một bước để tạo cơ sở, thúc đẩy hội nhập và hợp tác trong các lĩnh vực khác.
Năm là, hội nhập kinh tế quốc tế phải nhằm thúc đẩy các quan hệ hợp tác song phương, khu vực và đa phương; tiếp tục nâng cao vị trí vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động xây dựng các quan hệ đối tác mới thực sự mang lại lợi ích quốc gia. Kết hợp chặt chẽ Hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững độc lập tự chủ, an ninh quốc phòng.