Kinh nghiệm phát triển cụm liên kết ngành tại Hàn Quốc
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) định nghĩa các cụm công nghiệp là mạng lưới bao gồm các công ty, các tổ chức đào tạo (các trường đại học, viện nghiên cứu), các tổ chức trung gian (môi giới, tư vấn) và khách hàng, liên kết với nhau trong một chuỗi giá trị gia tăng.
Tại Hàn Quốc, cụm công nghiệp (industrial cluster) được định nghĩa là một nhóm gần nhau về mặt địa lý gồm các công ty, trường đại học, viện và các tổ chức chính phủ liên kết trong một lĩnh vực cụ thể, mục đích là tạo ra kiến thức và công nghệ mới bằng cách thúc đẩy hợp tác giữa các thành viên (KICOX, 2010). Sự tham gia tích cực của các tổ chức đào tạo như các trường đại học, viện nghiên cứu giúp các cụm công nghiệp đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu sáng tạo. Đồng thời, sự hỗ trợ và phối hợp chặt chẽ của chính phủ, các hoạt động hỗ trợ về tài chính, quản lý, nhân lực giúp các cụm công nghiệp Hàn Quốc phát triển và đạt được mục tiêu kinh tế theo từng khu vực.
Các cụm công nghiệp hiện nay ở Hàn Quốc đã được hình thành và phát triển dựa vào các chính sách phát triển kinh tế do Nhà nước đề ra. Các ngành công nghiệp có triển vọng đã được lựa chọn và hỗ trợ qua nhiều năm và đã đóng vai trò chủ chốt trong đẩy mạnh xuất khẩu, tăng việc làm và hiện vẫn có tiềm năng mạnh mẽ để đóng vai trò dẫn dắt sáng tạo của các nền kinh tế vùng.
Hàn Quốc đã cải tổ đáng kể chính sách công nghiệp của nước này theo thời gian. Ba giai đoạn khác nhau của chính sách công nghiệp đánh dấu thời kỳ công nghiệp hóa cao từ thập niên 1960 đến 1980. Trong những năm 1960, mối quan tâm chính sách chính là thúc đẩy các ngành xuất khẩu thâm dụng lao động cũng như sản xuất công nghiệp cơ bản. Vào những năm 1970, chính phủ đã ráo riết theo đuổi một chính sách công nghiệp chọn lọc. Trong những năm 1980, Hàn Quốc đã chuyển từ một chính sách công nghiệp tích cực và hướng tới hợp lý hóa và đổi mới công nghiệp. Chính sách công nghiệp của Hàn Quốc sau đó tập trung vào việc khôi phục sự phát triển cân bằng bằng cách thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các hoạt động kinh tế khu vực. Sự thay đổi trong chính sách công nghiệp đi kèm với sự thay đổi trong chính sách cụm công nghiệp. Có thể kể đến một số điểm nổi bật trong chính sách phát triển công nghiệp tại Hàn Quốc như sau:
- Phát triển các khu công nghiệp xuất khẩu trong những năm 1960: các chính sách công nghiệp tập trung phát triển công nghiệp nhẹ, trọng tâm là ngành may mặc tại Ulsan và Guro.
- Chiến lược phát triển cực tăng trưởng của thập niên 1970: các chính sách công nghiệp tập trung phát triển công nghiệp nặng và hóa chất, trọng tâm là ngành sắt thép tại Pohang, máy móc (Changwon), điện tử (Gumi), Hóa dầu (Ulsan).
- Chính sách phát triển cân bằng trong những năm 1980: các chính sách công nghiệp tập trung vào các ngành công nghệ, trọng tâm là sản xuất nguyên vật liệu và linh kiện tại Bawon Sihwa và Namdong.
- Đổi mới các cụm công nghiệp trong những năm 1990 và 2000: các chính sách công nghiệp tập trung vào ngành công nghệ thông tin tại Seoul Digital, Suwon, và Ulsan.
Trong những năm 1990, khi chính sách công nghiệp chú ý nhiều hơn đến năng lực cạnh tranh và R&D công nghiệp, các nhu cầu mới đa dạng nảy sinh, đòi hỏi phải có phản ứng phù hợp từ chính sách Nhà nước về địa điểm các cụm công nghiệp. Các khu công nghiệp bắt đầu các dịch vụ như R&D, hậu cần, phúc lợi cho công nhân cũng như sản xuất. Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vị trí các cụm công nghiệp đã được sửa đổi tại thời điểm này để phù hợp với cơ cấu công nghiệp đang thay đổi. Các văn bản khác nhau đã được tích hợp điểm mới cũng như loại bỏ các điểm không còn hợp lý để tạo điều kiện phát triển các khu công nghiệp và xây dựng các nhà máy.
Trong những năm 2000, mối quan tâm lớn là giảm chênh lệch khu vực, chênh lệch ngành và tăng cường đổi mới công nghiệp. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng đối với các hoạt động liên quan đến R&D, tiếp thị và phúc lợi trong các khu công nghiệp và dành không gian cho các ngành công nghiệp mới, như phần mềm và công nghệ sinh học, Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra các biện pháp hỗ trợ khác nhau và phát triển các khu công nghiệp phù hợp với yêu cầu cụ thể của từng ngành. Các khu công nghiệp công nghệ cao với quy mô nhỏ được xây dựng ở khu vực thành thị để các doanh nghiệp nhỏ có thể sử dụng với chi phí thấp. Ngoài ra, nhiều nỗ lực chính sách đã được thực hiện để hồi sinh và cải thiện khả năng cạnh tranh của các khu công nghiệp cũ, thúc đẩy các cụm công nghiệp đổi mới và xây dựng mạng lưới với các tổ chức nghiên cứu và học thuật. Các biện pháp chính sách nhằm cải tạo các trang web và làm cho chúng thân thiện hơn với môi trường cũng được bắt đầu.
Một vài đặc điểm quan trọng của chính sách về cụm công nghiệp Hàn Quốc là:
(1) Các chính sách về cụm công nghiệp được thực hiện từ góc độ toàn diện nhằm đạt được những điều kiện tối ưu để tăng cường khả năng cạnh tranh công nghiệp thông qua việc kết nối giữa doanh nghiệp và đơn vị nghiên cứu;
(2) Các chính sách về cụm công nghiệp không tập trung vào các thành phần riêng lẻ mà tập trung vào việc xây dựng mạng lưới. Mặc dù một nhiệm vụ quan trọng là hỗ trợ các thành viên riêng lẻ để họ có thể giải quyết các vấn đề khẩn cấp và tăng khả năng cạnh tranh, các chính sách về cụm công nghiệp chú trọng việc tăng cường mạng lưới liên kết thông qua sự hợp tác của các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ.
(3) Các chính sách về cụm công nghiệp khuyến khích sự tham gia tích cực của khu vực tư nhân cũng như chính quyền trung ương và địa phương. Mặc dù các chính sách về cụm công nghiệp được Chính phủ khởi xướng nhưng có sự bắt buộc khu vực tư nhân phải tham gia tích cực vào việc xây dựng và thực hiện các chính sách này. Sự tham gia của khu vực tư nhân là yếu tố quan trọng nhất của các chính sách về cụm công nghiệp tại Hàn Quốc.
(4) Việc phát triển các cụm liên kết sáng tạo (Innovative Clusters) ở Hàn Quốc được được xúc tiến mạnh mẽ kể từ khi Chiến lược phát triển cân đối quốc gia được thông qua với Đạo luật đặc biệt về phát triển cân đối quốc gia ngày 29/4/2004. Chính phủ Hàn Quốc xây dựng Chiến lược phát triển cân đối quốc gia như một trong những chương trình nghị sự quốc gia then chốt và đã xúc tiến “Kế hoạch 5 năm phát triển cân đối quốc gia” nhằm để đạt được đồng thời sự gắn kết xã hội và khả năng cạnh tranh quốc gia. Trong đó, phát triển các cụm liên liên kết sáng tạo như một cấu phần quan trọng của Chiến lược phát triển cân đối quốc gia được biết đến với nội dung: “Chuyển đổi các tổ hợp công nghiệp thành các Cụm liên kết sáng tạo”. Chính phủ Hàn Quốc lập kế hoạch để chuyển đổi các tổ hợp công nghiệp thành các cụm liên kết sáng tạo nhằm nuôi dưỡng các cụm liên kết có sức cạnh tranh. Các cụm liên kết này sẽ có nhiệm vụ biến đổi nền kinh tế Hàn Quốc thành một nền kinh tế dựa vào sáng tạo, làm động lực cho cuộc cất cánh lần thứ hai của quốc gia.
(5) Tập đoàn Phát triển các khu công nghiệp Hàn Quốc (KICOX) tiếp quản Chương trình Khu công nghiệp sinh thái quốc gia (EIP), với vai trò là cơ quan thực hiện. Thông qua bản kế hoạch mới hợp lý và chiến lược tập trung vào kinh doanh, Chương trình đã thu hút sự tham gia của nhiều doanh nghiệp. Theo đó, KICOX đã cải tiến chương trình với các mục tiêu cụ thể và một chiến lược 3 giai đoạn, kéo dài từ năm 2005 đến 2019 được đặt ra. Có thể thấy rõ, nhiều yếu tố góp phần vào thành công của Chương trình Khu công nghiệp sinh thái quốc gia Hàn Quốc, đáng kể đến là việc KICOX đã tận dụng hiệu quả các chuyên gia địa phương, từ đó xây dựng mạng lưới kết nối doanh nghiệp và người dân. KICOX đặc biệt đầu tư vào việc thu hút các công ty cư trú trong hệ thống "cộng sinh công nghiệp", vì sự tham gia của họ rất quan trọng cho sự thành công của Chương trình. Thông qua mối quan hệ chặt chẽ với các ngành thuộc khu phức hợp công nghiệp, trung tâm EIP của khu vực và điều phối viên tại địa phương có thể xây dựng cộng đồng các bên liên quan dựa trên đặc điểm chung về ngành hoặc loại tài nguyên. Để kích thích sự tham gia và đầu tư của doanh nghiệp vào Chương trình, trong những năm đầu tiên, KICOX tập trung vào các Dự án ngắn hạn để chứng minh lợi nhuận kinh tế của Dự án EIP nhằm thu hút doanh nghiệp. KICOX lập chiến lược sử dụng các trung tâm EIP tại khu vực để thúc đẩy Chương trình EIP.