Tiềm năng lớn nhất của RCEP từ góc độ hợp tác kinh tế
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực Đông Á (RCEP) có hiệu lực vào năm 2022 với tư cách là hiệp định thương mại tự do lớn nhất thế giới. Hiệp định đã được phê chuẩn khi đối mặt với những bất ổn chính trị và thương mại quốc tế lớn và là một sự thúc đẩy đáng kể cho hệ thống thương mại toàn cầu.
Đó chỉ là sự khởi đầu. Tiềm năng lớn nhất của RCEP còn nằm ở chương trình hợp tác kinh tế có thể biến RCEP ngoài một thỏa thuận được đàm phán, thành một quan hệ đối tác khu vực năng động. RCEP đưa Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand vào một thỏa thuận tập trung cùng với 10 thành viên ASEAN và chiếm khoảng 31% GDP cũng như dân số toàn cầu và 27% thương mại hàng hóa toàn cầu. Thỏa thuận giữ cho thị trường mở và cập nhật các quy tắc thương mại và đầu tư ở Đông Á, một trung tâm chính của hoạt động kinh tế toàn cầu, vào thời điểm chủ nghĩa bảo hộ gia tăng và WTO bị thách thức.
Một trong những trụ cột của RCEP là chương trình hợp tác kinh tế có tiền thân là phương pháp tiếp cận của ASEAN nhằm tập hợp các thành viên kém phát triển nhất. Chương trình nghị sự được xây dựng dựa trên kinh nghiệm nâng cao năng lực trong APEC và hợp tác kỹ thuật trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại tự do ASEAN Australia - New Zealand.
Ở mức tối thiểu, chương trình hợp tác kinh tế sẽ hỗ trợ các thành viên thực hiện các cam kết của RCEP. Nhưng có cơ hội vượt ra ngoài việc xây dựng năng lực và hợp tác kỹ thuật. RCEP có thể đưa đến một khuôn khổ tạo điều kiện cho hợp tác kinh tế sâu rộng hơn liên quan đến chia sẻ kinh nghiệm và tạo ra một khuôn khổ để mở rộng các quy tắc và tư cách thành viên và hợp tác chính trị.
RCEP mở rộng các phương thức hợp tác của ASEAN và củng cố hệ sinh thái thể chế với ban thư ký RCEP, các cuộc họp thường kỳ của các bộ trưởng và hội nghị cấp cao hàng năm của các nhà lãnh đạo xung quanh Hội nghị cấp cao Đông Á do ASEAN dẫn đầu. Đường lối chính trị mở ra cánh cửa cho một quan niệm rộng lớn và đầy tham vọng về hợp tác kinh tế và ban thư ký ASEAN. Phạm vi và cơ cấu của ban thư ký vẫn chưa được xác định nhưng nó sẽ cung cấp cơ sở để phối hợp giữa các thành viên. Nó có thể trở thành một nền tảng mà từ đó quản lý tự do hóa và hội nhập toàn châu Á.
Ngoài ra, sẽ có các ủy ban chung gồm các quan chức cấp cao và các ủy ban trực thuộc. Sự tham gia của doanh nghiệp và chuyên gia có thể được thể chế hóa để đạt được các mục tiêu cụ thể. Những quy trình này rất quan trọng để giúp xây dựng lòng tin và sự tự tin trong bối cảnh địa chính trị.
Các quy tắc mới của RCEP mở rộng sang thương mại điện tử và thương mại kỹ thuật số, tạo thuận lợi thương mại, quy tắc xuất xứ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Tự do hóa hàng hóa và dịch vụ và các "quy tắc xuất xứ" chung có nghĩa là chuỗi giá trị toàn cầu sẽ tiếp tục phát triển sâu rộng.
Không giống như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương và hiệp định kế thừa là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, RCEP không bao gồm các nguyên tắc về doanh nghiệp nhà nước, môi trường và tiêu chuẩn lao động. Khi các quy tắc mới được phát triển trong các hiệp định khác, có thể được xem xét để áp dụng trong RCEP thông qua quá trình hợp tác kinh tế.
Không phải mọi thứ ảnh hưởng đến dòng chảy thương mại quốc tế đều có thể được hoặc cần được đàm phán và ràng buộc về mặt pháp lý trong các thỏa thuận. Cách tiếp cận tự nguyện xây dựng sự đồng thuận của ASEAN nhằm hội nhập kinh tế sâu rộng hơn, đòi hỏi một chương trình hợp tác kinh tế linh hoạt cho phép các nhóm công tác báo cáo với các bộ trưởng về các vấn đề cấp bách nằm ngoài kết quả thương lượng của RCEP. Những vấn đề này bao gồm các nguyên tắc và tiêu chuẩn đầu tư cơ sở hạ tầng, hòa giải tranh chấp, chuyển đổi năng lượng, nền kinh tế kỹ thuật số, khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng, quản lý nợ có chủ quyền và các quy tắc phục hồi và đi lại sau đại dịch Covid-19. Chương trình nghị sự và phương thức hợp tác sẽ mang tính đặc trưng của ASEAN và khác biệt với hợp tác trong APEC.
Quá trình hợp tác kinh tế có thể giúp xã hội hóa các thành viên tiềm năng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc trở thành thành viên. Cách tiếp cận linh hoạt kết hợp với tinh thần hội nhập của ASEAN đã hình thành tư duy đằng sau RCEP, ưu tiên ngay lập tức cho các cơ hội đón nhận những bên không phải là thành viên có mối quan tâm đến công việc của RCEP. Mối quan tâm này nổi bật nhất đối với Ấn Độ, quốc gia mà cánh cửa trở thành thành viên vẫn còn bỏ ngỏ. Cuối cùng sẽ có nhiều khả năng Ấn Độ trở thành thành viên của RCEP nếu Ấn Độ tham gia hợp tác trong các vấn đề cùng quan tâm, chẳng hạn như phục hồi đại dịch.
Bangladesh cũng thể hiện sự quan tâm đến việc tham gia RCEP và việc Nam Á tham gia hơn nữa sẽ giúp mở rộng chuỗi giá trị toàn cầu ở Đông Á và cho phép chuyên môn hóa tốt hơn về lợi thế so sánh cho các nước ASEAN. Với việc Trung Quốc nhanh chóng bỏ trống lợi thế sản xuất chi phí thấp, có rất nhiều giải pháp thay thế cần được phát triển và tích hợp vào chuỗi giá trị.
Các thỏa thuận trên toàn khu vực ở Đông Á là tự nguyện và không gây thiệt hại cho những nước không phải là thành viên. Loại hình hợp tác không ràng buộc đó trong ASEAN và APEC đã là một hình mẫu cho G20. RCEP thay đổi điều đó nhưng chương trình hợp tác kinh tế vẫn thể hiện chủ nghĩa khu vực cởi mở có thể thúc đẩy các mục tiêu toàn cầu. Các cấu trúc mở và linh hoạt có thể thu hút các lợi ích bên ngoài và các sáng kiến mới, đồng thời, với sức nặng kinh tế của RCEP, củng cố các hệ thống toàn cầu.
Cũng giống như ASEAN đã làm trong thời gian qua, RCEP có thể đa phương hóa khả năng tiếp cận thị trường và các điều khoản khác. Nếu khuôn khổ được sử dụng một cách sáng tạo, chương trình hợp tác kinh tế sẽ cung cấp nền tảng để đạt được sự đồng thuận và ủng hộ các hành động đơn phương có phối hợp hướng tới mục tiêu đó. Việc thực hiện đúng khuôn khổ sẽ không phải tự động hoặc xảy ra trong một sớm một chiều, nhưng phạm vi và tham vọng của RCEP có thể được xác định và thống nhất trước khi các bộ trưởng và lãnh đạo nhóm họp vào cuối năm 2022. RCEP có hiệu lực là một bước khởi đầu quan trọng - bước tiếp theo là hành động để thiết lập hướng đi chiến lược trong tương lai.