Phát triển kết cấu hạ tầng và kinh tế biển gắn với liên kết vùng đồng bằng sông Hồng
Ngày 26/7, tại Nam Định, Ban Chỉ đạo Tổng kết Nghị quyết 54-NQ/TW chủ trì, phối hợp với Tỉnh ủy Nam Định tổ chức Hội thảo “Phát triển kết cấu hạ tầng và kinh tế biển vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
Chủ trì Hội thảo có đồng chí Nguyễn Duy Hưng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết; đồng chí Phạm Gia Túc, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Nam Định.
Tham dự có đại diện lãnh đạo một số ban, bộ, ngành Trung ương, thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ Biên tập xây dựng Đề án; đại diện lãnh đạo các tỉnh ủy, thành ủy, lãnh đạo một số sở, ban, ngành thuộc các tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Hồng và một số một số chuyên gia, nhà khoa học.
Phát biểu chào mừng tại Hội thảo, đồng chí Phạm Gia Túc, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Nam Định nhấn mạnh, vùng đồng bằng sông Hồng là địa bàn đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của cả nước; việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 54 và Kết luận số 13 thể hiện sự quan tâm đặc biệt và là chủ trương có ý nghĩa chiến lược nhằm huy động cao nhất các nguồn lực, khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế để vùng đồng bằng sông Hồng phát triển mạnh mẽ, đi đầu cả nước và là cầu nối để hội nhập, hợp tác kinh tế có hiệu quả với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đến nay, sự phát triển của 11 tỉnh, thành phố trong vùng đồng bằng sông Hồng đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển của cả nước; quy mô kinh tế của vùng đứng thứ 2 trong 6 vùng của cả nước.
Đồng chí Nguyễn Duy Hưng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương phát biểu Kết luận Hội thảo.
Phát biểu tại Hội thảo, đồng chí Nguyễn Duy Hưng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết cho biết, Hội thảo “Phát triển kết cấu hạ tầng và kinh tế biển vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” nhằm: Đánh giá thực trạng; những thành tựu đạt được; các khó khăn, tồn tại, vướng mắc trong phát triển kết cấu hạ tầng và kinh tế biển vùng đồng bằng sông Hồng; cơ hội và thách thức trong phát triển kết cấu hạ tầng và kinh tế biển vùng đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn mới; định hướng và các giải pháp chủ yếu về phát triển kết cấu hạ tầng và kinh tế biển vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Đồng chí đề nghị các đại biểu tập trung trao đổi, thảo luận vào nhiều nội dung như: đánh giá thực trạng phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, vận tải, cảng biển; đề xuất phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trọng tâm là phát triển mạng lưới giao thông, vận tải; phát triển hệ thống cảng biển. Các đại biểu đánh giá thực trạng phát triển kinh tế biển vùng ĐBSH, đề xuất phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế biển vùng ĐBSH đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với các trọng tâm là quy hoạch không gian biển; phát triển bền vững kinh tế biển; phát triển năng lượng, công nghiệp ven biển, dịch vụ logistics. Đánh giá thực trạng, đề xuất phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển vùng và liên kết vùng; về cơ chế, chính sách tài chính phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng và về phát triển thị trường tài chính vùng ĐBSH đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Hội thảo đã tập trung thảo luận, trao đổi 3 nhóm vấn đề, cụ thể: Về phát triển kết cấu hạ tầng vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Về phát triển kinh tế biển vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Về nhóm vấn đề liên quan là phát triển vùng và liên kết vùng; cơ chế, chính sách tài chính phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng và phát triển thị trường tài chính vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Theo đó, đánh giá về cơ sở hạ tầng cho phát triển logistics vùng ĐBSH, PGS, TS. Nguyễn Quang Hồng, Học viện Chính trị khu vực I nêu: Cơ sở hạ tầng (CSHT) vùng ĐBSH tuy đã được chú trọng đầu tư phát triển khá tốt so với các vùng trong cả nước, nhưng hệ thống CSHT, đặc biệt là giao thông đường bộ, đường sắt và cảng biển trong Vùng vẫn thuộc loại yếu về chất lượng, lạc hậu về công nghệ, đặc biệt là tính kết nối giữa các địa phương và hệ thống vận tải đa phương thức còn rất hạn chế. Hệ thống cảng biển thiếu cầu bến cho tàu có trọng tải lớn, đặc biệt là các bãi, bến cho tàu container vận hành trên các tuyến biển xa; Hạ tầng sau cảng như: hệ thống điện, nước và kết nối đường giao thông thủy, sắt, bộ và hàng không trong Vùng và kết nối với mạng quốc gia... chưa đáp ứng yêu cầu để hệ thống logistics phát triển; Hệ thống kho bãi, cảng cạn (ICD), trung tâm logistics, sàn giao dịch vận tải và dịch vụ logistics trong Vùng còn nhiều bất cập cả về không gian, công nghệ, tính đồng bộ và liên thông.
PGS.TS Trần Đình Thiên khi nói về kết nối hạ tầng, ông cũng cho rằng: Cách nối thông phát triển của các tỉnh, thành trong khu vực chưa được tốt, tính liên kết chưa cao. Cấu trúc kinh tế xã hội quyết định cách chúng ta tư duy về hạ tầng và quy hoạch phát triển vùng như thế nào, quy hoạch từng tỉnh thế nào thì quyết định hạ tầng như vậy. Chúng ta không nên vì bức xúc hạ tầng hiện nay mà giải quyết hạ tầng tương lai, đó chỉ đúng một phần. Vai trò của Vùng này gắn với tọa độ lớn của cả đất nước, phải có đẳng cấp khác hẳn. Phải thay đổi cách nghĩ về phát triển Vùng và hạ tầng số phải đặt vào sự phát triển của hạ tầng hôm nay.
Cần tiếp tục xây dựng khu vực Quảng Ninh, Hải Phòng trở thành trung tâm kinh tế biển
Về phát triển kinh tế biển vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, TS. Nguyễn Anh Tuấn, Viện Nghiên cứu biển và hải đảo cho rằng: Trong bối cảnh trong nước, quốc tế và khu vực, trước những yêu cầu mới về thích ứng và phát triển, để đạt được mục tiêu Trung ương Đảng đề ra tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, phát triển kinh tế biển vùng ĐBSH cần dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, hài hoà giữa bảo tồn và phát triển bao gồm quy hoạch không gian biển theo các vùng bảo vệ - bảo tồn, vùng đệm và vùng phát triển kinh tế - xã hội để phát triển bền vững kinh tế biển trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, bản sắc văn hoá, tính đa dạng của hệ sinh thái, bảo đảm tính liên kết vùng, giữa địa phương có biển và không có biển. Để phát triển bền vững kinh tế biển vùng ĐBHH, trong giai đoạn đến năm 2045, cần tiếp tục xây dựng khu vực Quảng Ninh, Hải Phòng trở thành trung tâm kinh tế biển; Quảng Ninh trở thành trung tâm du lịch quốc gia kết nối với các trung tâm du lịch quốc tế lớn của khu vực và thế giới; Hải Phòng trở thành trung tâm dịch vụ hậu cần cảng biển quốc tế, trung tâm nghề cá lớn gắn với ngư trường Vịnh Bắc Bộ; phát triển chế biến thủy sản, nuôi trồng thủy sản ven bờ và xa bờ ở cả Quảng Ninh và Hải Phòng. Phát triển kinh tế biển vùng nam ĐBSH cần được kết nối không gian với trung tâm phát triển kinh tế ở tiểu vùng Hải Phòng - Quảng Ninh và hành lang kinh tế Đông - Tây với các tuyến kinh tế trọng điểm ở Bắc Trung Bộ.
Về nhóm vấn đề liên quan là phát triển vùng và liên kết vùng; cơ chế, chính sách tài chính phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng và phát triển thị trường tài chính vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, TS. Cấn Văn Lực cho rằng, việc phát triển các nguồn lực tài chính là yếu tố quan trọng. Cùng với việc nắm bắt các xu hướng phát triển thị trường tài chính thế giới; bám sát các chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, NHNN, Bộ tài chính về phát triển thị trường tài chính Việt Nam trong giai đoạn 2022-2030, tầm nhìn đến năm 2045, cần chú trọng những yếu tố đặc thù của Vùng ĐBSH để có thể vừa chủ động nắm bắt cơ hội, triển vọng phát triển, vừa phòng ngừa rủi ro, phát triển bền vững các nguồn lực tài chính, chú trọng xu hướng phát triển của CMCN 4.0, xu hướng tài chính số và tài chính xanh, hội nhập sâu rộng với thị trường tài chính khu vực và toàn cầu; phù hợp với điều kiện tài chính của địa bàn. Bên cạnh đó, cũng cần Báo cáo đánh giá rủi ro tài chính toàn cầu, có định hướng, mục tiêu về phòng ngừa rủi ro, hạn chế tối đa những tác động bất lợi từ thị trường tài chính thế giới và khu vực…
Phát biểu kết luận Hội thảo, đồng chí Nguyễn Duy Hưng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết ghi nhận và đánh giá cao tham luận, trao đổi, thảo luận của lãnh đạo các Bộ, ngành; lãnh đạo các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng, đặc biệt là các chuyên gia, nhà khoa học. Đồng chí khẳng định, vùng ĐBSH có vị trí, vai trò đặc biệt về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng đối với cả nước; khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua việc ban hành Nghị quyết 54-NQ/TW của Bộ Chính trị. Sau gần 20 năm thực hiện Nghị quyết 54-NQ/TW, việc Bộ Chính trị yêu cầu tổng kết Nghị quyết, trên cơ sở đó, các đại biểu cũng đã đưa ra một số định hướng, giải pháp lớn mà về phát triển kết cấu hạ tầng; phát triển kinh tế biển; phát triển vùng và liên kết vùng; cơ chế, chính sách tài chính phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng và phát triển thị trường tài chính vùng ĐBSH đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Hội thảo thống nhất đề nghị Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 54-NQ/TW tham mưu, đề xuất Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới về phát triển KTXH và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với những chủ trương, định hướng phù hợp bối cảnh, tình hình và giai đoạn phát triển mới.
Thay mặt Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết ghị quyết 54-NQ/TW, đồng chí Nguyễn Duy Hưng ghi nhận và đánh giá cao tham luận, trao đổi, thảo luận của Lãnh đạo các Bộ, ngành; lãnh đạo các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng; các chuyên gia, nhà khoa học. Đồng thời, đồng chí cho biết thông qua Hội thảo có thêm những luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc tổng kết Nghị quyết 54-NQ/TW và Kết luận số 13-KL/TW của Bộ Chính trị, là cơ sở giúp Ban Chỉ đạo tổng kết xây dựng Đề án.