Ngăn chặn sự thảm khốc của biến đổi khí hậu
Năm 2022 là thời điểm quan trọng để cả thế giới cùng tăng cường hành động nhằm ngăn chặn những hậu quả thảm khốc của biến đổi khí hậu, đồng thời cam kết của các quốc gia cần quyết liệt hơn.
Lần đầu công bố báo cáo Đánh giá khí hậu quốc gia
Việt Nam có lãnh thổ trải dài trên nhiều vĩ tuyến, địa hình đa dạng và phức tạp, nên có sự khác biệt khá lớn về khí hậu giữa các vùng miền. Hằng năm, nước ta hứng chịu tác động của nhiều loại hình thiên tai có nguồn gốc khí tượng thủy văn gây cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, khí hậu diễn biến bất thường kèm theo các thiên tai mang tính cực đoan đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, tài sản của người dân và ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế đất nước.
Báo cáo Đánh giá khí hậu quốc gia được Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng nhằm hỗ trợ các nhà quản lý và người dân hiểu rõ hơn về đặc điểm, hiện trạng và mức độ thay đổi của khí hậu. Báo cáo đã phân tích những tác động của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam ở hiện tại và trong tương lai.
Đồng thời, nhận định về những nỗ lực, thành quả và thiếu hụt trong ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) của Việt Nam. Đây là tài liệu cung cấp thông tin hữu ích cho việc xây dựng, triển khai thực hiện các kế hoạch ứng phó với BĐKH, hỗ trợ cho việc lồng ghép ứng phó với BĐKH vào các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của Bộ, ngành và địa phương.
Báo cáo gồm 4 chương: Dao động khí hậu và biến đổi của khí hậu Việt Nam; Mức độ phù hợp của kịch bản BĐKH và việc sử dụng kịch bản BĐKH trong hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu; Tác động của BĐKH; Kết quả của hoạt động ứng phó với BĐKH.
Theo phân tích của các chuyên gia, thực tiễn BĐKH ở Việt Nam trong những năm vừa qua diễn ra nhanh hơn so với dự kiến.
Mới đây, Việt Nam đã ban hành Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 với mục tiêu chung nhằm giảm thiểu tính dễ bị tổn thương và rủi ro trước những tác động của biến đổi khí hậu thông qua việc tăng cường khả năng chống chịu, năng lực thích ứng của cộng đồng, các thành phần kinh tế và hệ sinh thái; thúc đẩy việc lồng ghép thích ứng với BĐKH vào hệ thống chiến lược, quy hoạch.
Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đang xây dựng dự thảo Đề cương chi tiết Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050.
Câu chuyện về BĐKH trên thế giới vẫn chưa được làm sáng tỏ
Hiện tượng thời tiết khắc nghiệt gia tăng là minh chứng cho thấy cho thấy thiên nhiên đang ứng phó với BĐKH do con người tạo ra và hợp tác với thiên nhiên sẽ là một trong những giải pháp tốt nhất để khôi phục lại sự cân bằng. Tuy vậy, điều này sẽ đòi hỏi tăng cường đầu tư và thay đổi đáng kể cách chúng ta tương tác với thế giới tự nhiên.
Theo Liên Hợp Quốc, để bảo vệ sự đa dạng sinh học của hành tinh và các cộng đồng phụ thuộc vào nó, một khu vực tương đương với diện tích của Trung Quốc nên được phục hồi về trạng thái tự nhiên. Năm 2030, cần tăng gấp 3 lần khoản đầu tư hằng năm vào các giải pháp tự nhiên cho cuộc khủng hoảng và tăng gấp 4 lần vào năm 2050 để thế giới đối mặt với mối đe dọa gấp 3 lần là: khí hậu, đa dạng sinh học và suy thoái đất. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc
António Guterres đã kêu gọi các quốc gia hợp tác để bảo đảm một tương lai bền vững cho con người và hành tinh, trong bối cảnh hơn 1 triệu loài đang bị đe dọa tuyệt chủng.
Từ năng lượng tái tạo và giao thông vận tải điện, đến tái trồng rừng và thay đổi lối sống…, có rất nhiều giải pháp để giải quyết cuộc khủng hoảng khí hậu. Tuy vậy, hiện vẫn chưa rõ nguồn tài chính sẽ đến từ đâu để chi trả cho tất cả những điều này. Hơn một thập kỷ trước, các quốc gia phát triển đã cam kết cùng huy động 100 tỷ USD mỗi năm vào năm 2020 để hỗ trợ hành động vì khí hậu ở các nước đang phát triển, nhưng con số này chưa từng đạt được.
Mặc dù vậy, cộng đồng doanh nghiệp dường như đã hiểu rõ các khoản đầu tư vào khí hậu mang lại ý nghĩa kinh tế. Chẳng hạn, ở hầu hết các quốc gia, năng lượng mặt trời hiện rẻ hơn so với việc xây dựng các nhà máy nhiệt điện than mới và đầu tư vào năng lượng sạch có thể tạo ra 18 triệu việc làm vào năm 2030.
Tháng 10/2021, 30 Tổng giám đốc và Giám đốc điều hành cấp cao của các công ty lớn, đại diện cho tổng giá trị khoảng 16.000 tỷ USD, đã tham dự cuộc họp của Liên minh Các nhà đầu tư toàn cầu vì sự phát triển bền vững (GISD) để phát triển các hướng dẫn và sản phẩm nhằm điều chỉnh hệ sinh thái tài chính và đầu tư hiện tại với các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs)…
Hội nghị thượng đỉnh Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP26) diễn ra tại Glasgow (Anh) vào tháng 11/2021 đã khơi dậy tất cả những phản ứng cùng lúc. Các chuyên gia nhận định, hội nghị đã ghi nhận những tiến bộ vững chắc, thậm chí mang tính lịch sử trong nỗ lực đẩy lùi mối đe dọa hiện hữu từ tình trạng nóng lên toàn cầu.
COP26 đã được triệu tập nhằm đưa cuộc chiến chống BĐKH tiến lên với những cam kết được đưa ra theo Thỏa thuận Paris năm 2015 và thúc đẩy, hoàn thiện việc chuyển các cam kết đó thành hành động cụ thể.
So với những hội nghị trước đó, COP26 có thể là bước tiến lớn, bởi lần đầu tiên cả 196 quốc gia, vùng lãnh thổ và tổ chức tham dự hội nghị kêu gọi cắt giảm điện than, hoặc cam kết tăng gấp đôi viện trợ tài chính mỗi năm - lên khoảng 40 tỷ USD để các nước nghèo có thể chống chọi với các tác động của khí hậu. Tương tự, một điều khoản buộc các quốc gia phải xem xét đặt ra các mục tiêu tham vọng hơn để giảm ô nhiễm carbon sau mỗi năm thay vì 5 năm một lần như trước đây, đều là những điều đáng được ghi nhận.
Vào “Ngày Năng lượng” của COP26, Tuyên bố Toàn cầu về Chuyển đổi Năng lượng Sạch đã được công bố. Đó là cam kết chấm dứt đầu tư vào than, phát triển năng lượng sạch, thực hiện một bước chuyển đổi chính xác và loại bỏ than vào năm 2030 ở các nền kinh tế lớn và vào năm 2040 ở các nước khác. Trong khoảng 77 quốc gia, bao gồm 46 nước như Ba Lan, Việt Nam và Chile, 23 trong số đó, cam kết lần đầu tiên chấm dứt than đá, là thành viên.
Câu chuyện về chống BĐKH vẫn chưa được làm sáng tỏ. Mặc dù một số quốc gia ngày càng tăng tốc trên con đường bảo vệ Trái Đất, ở nhiều nơi khác, những nỗ lực nhằm hạn chế sự nóng lên toàn cầu mới chỉ dừng lại ở cam kết. Cho đến nay, vẫn còn sự chênh lệch lớn giữa mong muốn của các cơ quan, tổ chức quốc tế bảo vệ môi trường và cảnh báo của giới khoa học với thực tế hành động của quốc gia; đồng thời, kết quả thực tế đạt được trong việc thu hẹp khoảng cách này chưa bao giờ đủ như kỳ vọng.