Quy hoạch Bảo vệ môi trường quốc gia thời kỳ 2021-2030: Gắn với phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn
Chiều ngày 3/7, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã chủ trì cuộc họp Hội đồng thẩm định Quy hoạch Bảo vệ môi trường quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch BVMT).
Quy hoạch BVMT quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu về BVMT, phục vụ phát triển bền vững đất nước dựa trên sắp xếp, định hướng phân bố không gian phân vùng quản lý chất lượng môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, quản lý chất thải, quan trắc và cảnh báo môi trường theo lãnh thổ xác định để BVMT.
Hoạt động BVMT hướng tới thực hiện xây dựng và phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, carbon thấp, thực hiện cam kết giảm phát thải ròng khí nhà kính bằng 0 (Net Zero).
Từ tình trạng ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học hiện nay, Phó Thủ tướng cho rằng "bài toán" môi trường phải được đặt ra trong quá trình phát triển. Quy hoạch cần cập nhật theo mô hình tăng trưởng theo kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, bảo đảm hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, an sinh xã hội với BVMT. "BVMT phải đi trước một bước chứ không phải lẽo đẽo đi sau phát triển".
Quy hoạch cũng cần cập nhật các xu thế mới của thế giới về giảm phát thải ròng khí nhà kính; xử lý, tái sử dụng 100% nước thải; thể chế hoá nội dung Nghị quyết 24 Nghị quyết 24-NQ/TW năm 2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT, Luật BVMT năm 2020.
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Quy hoạch BVMT quốc gia được xây dựng trên quan điểm lấy con người là trung tâm; bảo đảm tính "mở, động và tĩnh" của quy hoạch. Quy hoạch là một bước cụ thể hóa Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; góp phần thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; phù hợp với các quy hoạch: Quy hoạch tổng thể quốc gia, Quy hoạch sử dụng đất quốc gia, Quy hoạch không gian biển quốc gia.
Hoạt động BVMT áp dụng một số nguyên tắc như người gây ô nhiễm phải trả chi phí để xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi môi trường. Người được hưởng lợi từ giá trị môi trường phải có nghĩa vụ trả tiền để đầu tư trở lại cho BVMT. Coi chất thải là tài nguyên, thực hiện phân loại chất thải tại nguồn, tăng cường tái chế, tái sử dụng và thu hồi năng lượng từ chất thải gắn với hình thành chuỗi sản xuất tiếp nối, liên tục. Xây dựng bộ tiêu chí GDP xanh cho nền kinh tế.
Mục tiêu tổng quát của Quy hoạch BVMT nhằm chủ động ngăn ngừa, kiểm soát được ô nhiễm và suy thoái môi trường; phục hồi và cải thiện được chất lượng môi trường; bảo vệ tính nguyên vẹn của các hệ sinh thái tự nhiên; thiết lập khu bảo vệ, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; hình thành các khu xử lý chất thải tập trung; định hướng xây dựng mạng lưới quan trắc và cảnh báo môi trường trên phạm vi toàn quốc.
Quy hoạch đặt ra mục tiêu cụ thể về xác lập và quản lý: 256 khu bảo tồn thiên nhiên (khoảng 6,7 triệu ha); 21 cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học để bảo tồn giai đoạn 2021-2025; 13 hành lang đa dạng sinh học trên cả nước (hơn 1,55 triệu ha); 41 khu vực đa dạng sinh học cao (gần 3 triệu ha); 24 cảnh quan sinh thái quan trọng (gần 9,3 triệu ha); xác lập và quản lý 10 vùng đất ngập nước quan trọng (hơn 0,14 triệu ha)...
Quy hoạch còn đặt ra mục tiêu hình thành các khu xử lý chất thải tập trung cấp quốc gia, vùng, tỉnh có quy mô công suất, công nghệ xử lý phù hợp đáp ứng yêu cầu tiếp nhận, xử lý được toàn bộ lượng chất thải rắn phát sinh trên phạm vi cả nước, hạn chế chôn lấp trực tiếp.
Cụ thể, đến năm 2030 sẽ hình thành 3 khu xử lý chất thải tập trung cấp quốc gia; 1 khu xử lý chất thải tập trung cấp vùng tại mỗi vùng kinh tế-xã hội; 1 khu xử lý chất thải tập trung cấp tỉnh tại mỗi tỉnh. Tỉ lệ chất thải nguy hại được thu gom, xử lý đạt 98% (riêng tỉ lệ chất thải y tế được xử lý đạt 100%); tỉ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom, xử lý đạt 95% ở đô thị và 90% ở nông thôn; tỉ lệ tái sử dụng, tái chế trên 65%...
Cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp Nạp Tiền 188bet phát biểu tại cuộc họp
Tại cuộc họp, các ý kiến đánh giá, giải pháp tổng thể đề cập trong Quy hoạch phù hợp với thực tế và có tính khả thi cao bao gồm: Đổi mới tư duy quản lý, tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng. Hai là hoàn thiện cơ chế, chính sách hệ thống pháp luật về bảo vệ về BVMT phù hợp với thể chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Ngoài giải pháp từ phía cơ quan quản lý Nhà nước, một số đại biểu đề nghị khuyến khích, thúc đẩy nguồn lực xã hội hoá trong cung cấp các dịch vụ môi trường, hệ sinh thái, xử lý chất thải rắn, nguy hại; ưu tiên công nghệ xử lý kết hợp thu hồi năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính, an toàn và phù hợp với điều kiện của từng địa phương; phát triển ngành công nghiệp tái chế, khuyến khích sử dụng, tiêu thụ các sản phẩm từ quá trình xử lý chất thải…
Kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ TN&MT tiếp thu đầy đủ, thiết thực, hiệu quả các ý kiến của uỷ viên phản biện, các bộ, ngành là thành viên hội đồng thẩm định, nhất là trong thu thập, đánh giá số liệu thống kê, phương pháp tiếp cận, xây dựng quy hoạch…
Phó Thủ tướng yêu cầu cơ quan soạn thảo Quy hoạch BVMT phải bám sát nội dung Nghị quyết 24-NQ/TW năm 2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT, Nghị quyết 36-NQ/TW năm 2018 cề Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Luật BVMT năm 2020, Luật Quy hoạch….
Quy hoạch cần bảo đảm tính đồng bộ, liên thông, tương hỗ, không để xảy ra xung đột với quy hoạch tổng thể, quy hoạch quốc gia của các ngành, lĩnh vực… góp phần bảo đảm sự thống nhất giữa môi trường và các lĩnh vực kinh tế, xã hội nằm trong tổng thể, bao trùm của không gian sinh tồn, phát triển.
Phó Thủ tướng nêu quan điểm, với mô hình phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, carbon thấp thì vấn đề BVMT phải đi trước, là cơ sở, nền tảng cho sự phát triển kinh tế hài hoà với tự nhiên. Vì vậy, Quy hoạch BVMT phải có tư duy, tầm nhìn giúp các ngành kinh tế phát triển, đồng thời phòng, ngừa từ xa đối với những tác động có thể ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường.
Về mục tiêu của Quy hoạch BVMT, Phó Thủ tướng nhấn mạnh yêu cầu BVMT để phát triển kinh tế theo hướng "thuận thiên" bền vững; cải thiện và phục hồi các khu vực ô nhiễm, suy thoái, nhất là những giá trị, hệ sinh thái cốt lõi của Việt Nam.
Theo đó, Quy hoạch BVMT phải khoanh vùng các khu vực ô nhiễm nghiêm trọng cần ưu tiên xử lý, khắc phục; có giải pháp tái tạo, phục hồi lại những khu vực có tầm quan trọng, giá trị và ý nghĩa đặc thù đối với hệ sinh thái như rừng ngập mặn, rừng phòng hộ, đầu nguồn… và đồng thời phát triển các hoạt động kinh tế dựa vào hệ sinh thái, đa dạng sinh học thay vì chỉ "khoanh vùng, bảo tồn nghiêm ngặt"; định hướng cho các giải pháp kinh tế bền vững khi thực hiện "Net Zero", phát triển năng lượng tái tạo, giao thông vận tải xanh, nước thải tuần hoàn…
Bên cạnh đó, Phó Thủ tướng đề nghị Quy hoạch BVMT phải xây dựng luận chứng, tiêu chí xác định các dự án, kế hoạch ưu tiên cho các hoạt động bảo vệ, bảo tồn, phục hồi môi trường.
Trong đó, bảo tồn cảnh quan thiên nhiên, hệ sinh thái đa dạng sinh học hiện có là bộ phận quan trọng nhất, tiếp đến là ưu tiên khắc phục, cải tạo khu vực ô nhiễm môi trường, cuối cùng là định hướng phát triển các hoạt động kinh tế, xã hội dựa trên bảo tồn, BVMT.