Đa dạng chính sách phát triển thương mại miền núi, vùng dân tộc thiểu số
Khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc là khu vực yếu thế và luôn nhận được sự quan tâm rất lớn của các cơ quan ban hành chính sách.
Nhiều chính sách phát triển thương mại miền núi
Bà Bế Hồng Vân - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách dân tộc, Ủy ban Dân tộc Những năm trước đây, vấn đề hỗ trợ phát triển sản phẩm của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã được thực hiện lồng ghép trong các chương trình, chính sách phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Ví dụ như các chính sách hỗ trợ về phát triển sản xuất, chuyển đổi nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số; Chương trình ứng chuyển giao khoa học công nghệ để phát triển kinh tế xã hội vùng nông thôn, miền núi và vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo; Đề án phát triển thị trường trong nước gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”…
Những năm trước đây, vấn đề hỗ trợ phát triển sản phẩm của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã được thực hiện lồng ghép trong các chương trình, chính sách phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Ví dụ như các chính sách hỗ trợ về phát triển sản xuất, chuyển đổi nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số; Chương trình ứng dụng chuyển giao khoa học công nghệ để phát triển kinh tế xã hội vùng nông thôn, miền núi và vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo; Đề án phát triển thị trường trong nước gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”…
“Đến năm 2021, vấn đề phát triển thương mại miền núi, vùng dân tộc thiểu số được thể hiện rất rõ nét ở dự án 3 của Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2021-2030” – bà Bế Hồng Vân chia sẻ.
Cụ thể, tiểu dự án 2 của dự án này đã đưa ra mục tiêu là hỗ trợ các dự án phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị phù hợp với từng vùng, miền và sẽ khai thác tiềm năng, lợi thế theo hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có hiệu quả, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho hộ gia đình và giảm nghèo bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Bên cạnh đó, yếu tố giá trị văn hóa các dân tộc đã được thể hiện cụ thể tại dự án 6 trong chương trình này, đó là bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc thiểu số gắn với du lịch. Trong đó đã đề ra phương hướng rất rõ là khai thác thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên, về văn hóa, ẩm thực độc đáo, đặc sắc của đồng bào dân tộc thiểu số để thúc đẩy phát triển du lịch sinh thái, du lịch trải nghiệm và du lịch lịch sử văn hóa, đẩy mạnh việc phát triển du lịch xanh gắn với việc tôn trọng yếu tố tự nhiên cũng như văn hóa địa phương, vùng dân tộc thiểu số.
“Nhờ đó, đến nay đã tổ chức được 445 mô hình hỗ trợ phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị và 402 mô hình phát triển sản xuất cộng đồng; tạo được 249 mô hình khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và tổ chức được 52 sự kiện kết nối thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng như các sự kiện lễ hội gắn thương mại với du lịch; sự kiện quảng bá tiêu thụ sản phẩm của đồng bào…” – bà Bế Hồng Vân chia sẻ.
Đặc biệt, các cơ quan chức năng đã tổ chức được 35 hội nghị tập huấn về năng lực thương mại, trong đó có tập huấn về kỹ năng thương mại, kỹ năng bán hàng - kinh doanh với sự tham gia của hơn 1.400 đồng bào dân tộc thiểu số. Những con số này hiện nay vẫn đang được cập nhật.
Nỗ lực đẩy mạnh phát triển thương mại cho khu vực đặc thù
Có thể nói đến thời điểm này, về quan điểm cũng như định hướng, mục tiêu về việc hỗ trợ phát triển sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã được thể hiện rất nhiều trong các văn bản của Chính phủ. Do đó, thời gian tới, Uỷ ban Dân tộc định hướng rằng phải có những hành động cụ thể và hiệu quả để đạt được những mục tiêu, cụ thể:
Thứ nhất, cần phải tạo một môi trường kết nối các đối tác tham gia vào liên kết chuỗi giá trị gồm cơ quan chính quyền, đó là đại diện cho cơ chế, chính sách.
Thứ hai, các doanh nghiệp trên địa bàn đã triển khai thành công trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số có vai trò là hỗ trợ kỹ thuật cũng như là tạo động lực, gọi tắt là động lực kéo.
Thứ ba, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội cũng như các chuyên gia phải góp phần vào việc trợ giúp cho việc nghiên cứu cũng như phát triển sản phẩm, dịch vụ và mở rộng thị trường và tất nhiên là cộng đồng dân tộc thiểu số.
Thứ tư, phải đưa những yếu tố tri thức, những văn hóa truyền thống cũng như cố kết cộng đồng vào trong tiêu chí để lựa chọn những dự án hỗ trợ phát triển chuỗi giá trị.
Thứ năm, các chính sách hỗ trợ cần đơn giản hóa về thủ tục. Cái này đúng là một câu chuyện đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Có cơ chế hỗ trợ trong quá trình. Quá trình để phát triển một chuỗi mô hình cần thời gian khá là dài, từ bắt đầu xuất phát điểm và đến lúc có sản phẩm, dịch vụ và được thị trường công nhận, cũng phải đến 2 - 3 năm. Việc hỗ trợ theo quá trình là một công việc rất quan trọng mà chúng ta cần phải lưu ý trong các cơ chế, chính sách.
Thứ sáu, xây dựng phát triển mạng lưới cộng tác viên ở các địa phương. Đây là một lực lượng đóng góp rất quan trọng trong việc phát hiện những mô hình đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Đặc biệt phải lưu ý đến đội ngũ nghệ nhân tại địa phương. Hầu như các chính sách chưa được thể hiện rõ.
Thứ bảy, phải thay đổi tư duy về việc củng cố những khôi phục các thiết chế văn hóa truyền thống như ngày xưa nó được thông qua công tác tuyên truyền. Tôi nghĩ là đến bây giờ chúng ta phải biến những việc hỗ trợ củng cố, khôi phục các thiết chế văn hóa truyền thống thành việc tăng thu nhập cho cộng đồng, thông qua phát triển du lịch cũng như là các sản phẩm khai thác văn hóa truyền thống.