Tư vấn xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Hoa Kỳ
Ngày 29/11/2021, Cục Xúc tiến thương mại (XTTM) đã phối hợp với Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ tổ chức Phiên tư vấn “Xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ”.
Đây là phiên tư vấn thứ 8 trong chuỗi 20 phiên tư vấn, cung cấp thông tin cho địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp Việt Nam về thị trường xuất nhập khẩu do Cục Xúc tiến thương mại thực hiện. Sự kiện thu hút hơn 200 đại biểu là doanh nghiệp các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp xuất khẩu tham dự.
Nhiều dư địa cho doanh nghiệp Việt Nam
Phát biểu khai mạc phiên tư vấn, ông Lê Hoàng Tài, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Nạp Tiền 188bet ) cho biết, bất chấp những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ năm 2021 vẫn tiếp tục tăng trưởng và sắp cán mốc 100 tỷ USD.
Ông Lê Hoàng Tài (giữa) phát biểu tại phiên tư vấn
Hoa Kỳ hiện đang dẫn đầu các thị trường xuất khẩu của Việt Nam với kim ngạch vượt xa các thị trường xuất khẩu lớn khác của Việt Nam như Trung Quốc, EU, ASEAN, Hàn Quốc và Nhật Bản. Trong khi đó, Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 10 của Hoa Kỳ và là một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng nhiều loại hàng hóa cho thị trường Hoa Kỳ.
Trong số các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ, nông sản, thuỷ sản, đồ nội thất, trang trí… chiếm vị thế hết sức quan trọng. Bởi lẽ, đây là các nhóm mặt hàng thế mạnh của Việt Nam và Hoa Kỳ có nhu cầu lớn.
Chia sẻ chi tiết về thị trường Hoa Kỳ, ông Bùi Huy Sơn, Tham tán Công sứ, Thương mại Việt Nam tại Hoa Kỳ cho biết, kinh tế Hoa Kỳ đang trong giai đoạn phục hồi mạnh mẽ, tăng trưởng kinh tế quốc nội (GDP) quý 3/2021 đạt 4,9%. Với quy mô dân số hơn 333 triệu người cùng sức mua lớn, Hoa Kỳ là thị trường tiềm năng và đang phát triển rất tích cực.
Tham tán Công sứ, Thương mại Việt Nam tại Hoa Kỳ Bùi Huy Sơn chia sẻ thông tin tại phiên tư vấn
Về thuận lợi của thị trường Hoa Kỳ, ông Bùi Huy Sơn nhận xét: Đây là thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới với sức mua cao, đồng thời là thị trường có xu hướng tăng cả về giá cũng như quy mô; môi trường chính sách, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đang có nhiều thuận lợi; nhu cầu và tập quán tiêu dùng phong phú theo thu nhập, đặc trưng văn hóa, vùng miền tạo nên dư địa lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khai thác có hiệu quả; ngoài ra lực lượng người Việt đông đảo chính là cầu nối, là nhóm khách hàng quan trọng của hàng hóa Việt Nam.
Với thị trường miền Nam Hoa Kỳ, ông Nguyễn Mạnh Quyền, Trưởng Chi nhánh Thương vụ Việt Nam tại Houston cho hay: Khu vực này đang có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng. Đặc biệt, tháng 11/2021, 17 tỷ USD của tập đoàn Samsung đầu tư vào Texas kéo theo làn sóng đầu tư mạnh mẽ với sự góp mặt của nhiều doanh nghiệp lớn, tập đoàn đa quốc gia, các doanh nghiệp Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng GDP của Texas vẫn tăng dù vẫn chịu ảnh hưởng từ lạm phát.
Về thị trường thực phẩm khu vực miền Tây của Hoa Kỳ, ông Trần Minh Thắng, Trưởng Chi nhánh Thương vụ Việt Nam tại San Francisco thông tin: Khu vực này tập trung nhiều siêu thị lớn như Safeway, King Soopers, Albertsons, Sprouts Famers Market…. Thị trường người Mỹ gốc Việt tại đây cũng tương đối lớn với 2,18 triệu người, sức mua đạt 57 tỷ USD, thói quen tiêu dùng rất gần với người Việt Nam. Đây là một kênh hữu hiệu giúp hàng hoá Việt thâm nhập sâu vào thị trường khu vực miền Tây Hoa Kỳ.
Thị trường lớn, thách thức lớn
Dù có nhu cầu cao, sức tiêu thụ lớn nhưng Hoa Kỳ là một trong những thị trường “khó tính” bậc nhất trên thế giới. Hoa Kỳ có yêu cầu rất cao về an toàn vệ sinh thực phẩm, các rào cản kỹ thuật về lao động, môi trường. Bên cạnh đó hàng hóa Việt Nam phải cạnh tranh với các nhóm hàng khác được sản xuất ngay tại Hoa Kỳ hay từ các đối thủ khác đến từ Châu Á, Nam Mỹ, thậm chí là Châu Phi.
Thách thức với nhóm hàng đồ gỗ, nội thất, ông Bùi Huy Sơn nhấn mạnh, khoảng cách địa lý xa, chi phí vận tải tăng cao do dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp. Bên cạnh đó, chính quyền Hoa Kỳ hiện chú trọng các yêu cầu thân thiện môi trường, đặc biệt đến vấn đề khai thác gỗ, nguồn gốc gỗ. Hơn nữa, thị hiếu thị trường tại Hoa Kỳ cũng thường xuyên thay đổi, vì vậy việc theo sát thị hiếu của thị trường cũng là thách thức.
Trong xu hướng tiêu dùng của thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện mới, các chuyên gia khuyến nghị, doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới cần đẩy mạnh công tác quảng bá, xúc tiến thương mại; chú trọng tiếp cận, thiết lập hệ thống phân phối; tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử; nâng cao chất lượng sản phẩm, hàm lượng chế biến, cam kết chất lượng ổn định; phát triển các mô hình liên kết sản xuất, các nhà cung cấp nguyên liệu, tiêu thụ theo chuỗi; đảm bảo nguồn gốc nguyên liệu; thận trọng trong quá trình đàm phán, thực hiện giao dịch và chủ động ứng phó với các cuộc điều tra thương mại,...
Bà Amy Nguyễn - CEO Công ty Dragonberry Produce, Hoa Kỳ - doanh nghiệp có nhiều năm xuất khẩu trái cây vào thị trường Hoa Kỳ cho biết, xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ phải tính đến chuyện 5-10 năm, rất khó để trong một thời gian ngắn có thể đứng vững tại thị trường này. Hơn nữa, việc kiểm tra chất lượng sản phẩm phải thường xuyên, liên tục để đảm bảo sản phẩm không bị vượt ngưỡng cho phép các loại dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Công nghệ bảo quản sản phẩm của nhà sản xuất cũng cần được nghiên cứu, nâng cấp để hàng hoá có thể vận chuyển bằng đường biển thay cho đường hàng không như hiện nay nhằm giảm chi phí, hạ giá thành và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
Cùng đó, xu hướng mua sắm online đã trở nên rất phổ biến, doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng các kênh thương mại điện tử lớn như Amazon để quảng bá giới thiệu và bán sản phẩm. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng cần tạo sự khác biệt cho sản phẩm thông qua chiến lược thiết kế, công tác đánh giá và marketing sản phẩm để làm cho thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp nổi trội hơn hẳn so với các thương hiệu khác trong cùng loại mặt hàng.
Trong thời gian tới, chính sách của Việt Nam là tiếp tục tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư cùng có lợi với Hoa Kỳ. Dự kiến sẽ có nhiều triển vọng cho các doanh nghiệp Việt Nam và Hoa Kỳ cùng hợp lực thiết lập các chuỗi sản xuất hàng hóa chất lượng cao, cùng gắn kết sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt là trong tương lai hậu Covid-19.