Tận dụng hiệu quả các ưu đãi trong Hiệp định CPTPP
Ngày 1/12, Tạp chí Công Thương đã tổ chức Tọa đàm "Gia tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi của doanh nghiệp Việt Nam trong CPTPP". Thông qua những trao đổi và khuyến nghị của các khách mời tham dự Tọa đàm giúp các cơ quan quản lý Nhà nước, hiệp hội, doanh nghiệp định hướng những giải pháp để gia tăng xuất khẩu hàng hóa sang thị trường các nước thành viên CPTPP và tăng cường hiệu quả thực thi Hiệp định CPTPP trong thời gian tới.
Tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi của doanh nghiệp Việt Nam
Tại Tọa đàm, bà Đỗ Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Nạp Tiền 188bet cho biết, con số chung về tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi trong CPTPP là 6,7%. Đứng về con số tuyệt đối nghe có vẻ thấp, nhưng thực tế con số này tính trên tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra toàn bộ khối gồm 11 nước thành viên và trong đó mới có sáu nước thành viên đã thực thi CPTPP tính đến thời điểm khoảng từ tháng 8/2021 trở về trước. Nếu như chỉ tính trên trên sáu nước này thôi, tỷ lệ sẽ cao hơn chứ không phải là 6,7%.
Điểm thứ hai là trong số 11 nước hoặc là 10 nước đối tác của Việt Nam trong CPTPP thì bảy nước đã có FTA với Việt Nam rồi, ba nước là đối tác mới và thực chất ra cơ hội thị trường chủ yếu của CPTPP đem lại chỉ là ba nước này Canada, Mexico và Peru. Riêng Peru mới thực thi từ cuối năm 2021 trở lại đây. Cho nên nếu tính trên tổng thể ba năm vừa qua thì Canada và Mexico sẽ là hai thị trường chính mà chúng ta có thể đánh giá về hiệu quả sử dụng.
Nếu tính chỉ riêng thị trường Canada và Mexico thì tỷ lệ sử dụng ưu đãi này tăng hơn hẳn mức trung bình, chiếm khoảng xấp xỉ 24% và con số này cao hơn tỷ lệ sử dụng ưu đãi trong Hiệp định với EU (EVFTA) và UKVFTA.
Bên cạnh đó, khả năng đáp ứng tiêu chí xuất xứ CPTPP là như nhau nhưng tỷ lệ sử dụng C/O CPTPP sang Mexico và Canada khá là khác nhau. Với Canada tỷ lệ khoảng 10% theo thống kê của phía Việt Nam và với Mexico tỉ lệ là 40%.
Lý do là liên quan đến thuế MFN, Canada là thị trường tự do hóa thương mại cao, bản thân khi chưa có FTA thì trên 50% kim ngạch xuất khẩu của ta sang thị trường Canada đã được hưởng thuế 0%. Cho nên khi có FTA doanh nghiệp chúng ta cũng không có nhu cầu để sử dụng C/O để mà được hưởng thuế ưu đãi hơn nữa vì không có thuế ưu đãi hơn hơn 0%.
Còn ngược lại với Mexico dung lượng thị trường có thể thấp hơn so với cả Việt Nam. Tuy nhiên thuế Mexico cũng tương tự như Việt Nam là đang áp dụng thuế MFN khá cao thì với lộ trình của CPTPP có sự chênh lệch giữa thuế MFN và thuế CPTPP doanh nghiệp sẽ tận dụng nhiều hơn rất nhiều.
Bà Hương chia sẻ thêm, về thị trường, những thị trường Việt Nam đã có FTA rồi như Nhật Bản, Úc hay New Zealand chẳng hạn thì các doanh nghiệp sẽ chủ yếu tận dụng những hiệp định mà Việt Nam đã ký kết trước đây, ví dụ như Hiệp định ANZFTA hoặc là Hiệp định Việt Nam - Nhật Bản, ASEAN - Nhật Bản. Dù tỷ lệ sử dụng Hiệp định CPTPP đối với các thị trường này hiện đang ở mức thấp nhưng tăng dần đều trong những năm vừa qua, cho nên sự quan tâm của doanh nghiệp đối với CPTPP cũng đang tăng. Đối với những thị trường khác cũng như vậy.
Tại sao có sự chênh lệch về thị trường? Ở những thị trường đã có FTA rồi thì vì đã thực hiện lâu rồi, trong lộ trình giảm thuế đã về 0% rồi nên doanh nghiệp sẽ sử dụng những thị trường cũ, những hiệp định cũ và quy tắc xuất xứ với với những hiệp định trước đây hơn. Còn đối với thị trường Canada và Mexico có sự chênh lệch về thuế MFN đó mà tỷ lệ cũng sẽ khác nhau theo.
Đứng về góc độ mặt hàng, bà Đỗ Thu Hương chia sẻ, nếu tính trên tổng thể chung của khối CPTPP bao gồm những nước đã thực thi, những nước chưa thực thi, bao gồm cả những nước đã có FTA và những nước mà chưa có FTA thì tỷ lệ những nhóm hàng chúng ta sử dụng tốt là giày dép chiếm khoảng 43%, xơ sợi cũng khoảng 33%, sắt thép và các sản phẩm sắt, thép 76%, điện thoại và linh kiện điện thoại là 13% và thủy sản là 6%. Tất nhiên là trong các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường này thì dệt may vẫn là nhóm hàng mà hiện nay tỷ lệ sử dụng C/O CPTPP thấp và cũng gần như không tăng trong ba năm vừa qua.
Ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Nạp Tiền 188bet ) chia sẻ thêm, thời gian qua, kiến thức và hiểu biết của doanh nghiệp về FTA nói chung và hiệp định CPTPP nói riêng đã cải thiện đáng kể. Tỉ lệ các doanh nghiệp hiểu về Hiệp định CPTPP hay hiểu rõ về Hiệp định CPTPP đã tăng trưởng rất mạnh.
Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang CPTPP nói chung và đặc biệt là sang ba thị trường FTA mới, tức thị trường chưa có FTA khi ký CPTPP là Canada, Mexico, Peru tăng trưởng rất mạnh và thặng dư thương mại từ riêng hai thị trường Canada và Mexico đã là một con số rất đáng kể.
Tuy nhiên, dù xuất khẩu sang Canada, Mexico tăng giá trị tăng nhưng tỷ trọng của hai thị trường này còn tương đối khiêm tốn. Cùng đó là những mặt hàng có tỷ lệ tận dụng tốt thì giá trị còn tương đối hạn chế.
Ngoài ra, những mặt hàng Việt Nam xuất khẩu giá trị cao cũng đang dừng lại ở tỷ lệ chưa cao. Đây là những điểm cần chú ý để tập trung cải thiện hơn trong thời gian tới.
Về phía doanh nghiệp, ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng công ty May Hưng Yên (Hugaco) chia sẻ, khó khăn trong đầu tư xử lý nước thải làm giảm cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi tiêu chuẩn môi trường đặt ra tiêu chí, tiêu chuẩn về môi trường để thực hiện, còn đối với nước ngoài cũng đang hướng tới vấn đề xanh nhưng không phải tức thì, ngay kể cả châu Âu.
Tập trung những nhóm hàng có tỷ lệ tận dụng cao
Do vậy, ông Nguyễn Xuân Dương cho rằng làm tốt ở công đoạn nào, cạnh tranh ở chỗ đó. Ngoài ra, phải thu hút được năng lực, công nghệ của doanh nghiệp nước ngoài để liên kết nâng cao năng lực cung ứng nguyên phụ liệu trong nước.
Để tận dụng hiệu quả ưu đãi CPTPP trong giai đoạn tới, theo ông Ngô Chung Khanh, đầu tiên phải tăng được kim ngạch xuất khẩu, trong đó tập trung vào những nhóm ngành hàng có tỷ lệ tận dụng cao.
Quy tắc xuất xứ mà Hiệp định CPTPP đưa ra là khá cao so với các FTA khác, nhưng từ khảo sát gần đây của VCCI về vấn đề các yếu tố nào cản trở doanh nghiệp Việt Nam tận dụng FTA, có đưa ra khoảng 7- 8 yếu tố, thì yếu tố lớn nhất không phải là quy tắc xuất xứ. Cụ thể, yếu tố cản trở lớn nhất là bất ổn của thị trường, thứ hai là liên quan đến các vấn đề về năng lực cạnh tranh, thứ ba liên quan đến thông tin, thứ tư mới là quy tắc xuất xứ.
Về phía địa phương, ông Trần Thế Phương, Trưởng phòng Quản lý Thương mại, Sở Công Thương Bình Dương nhấn mạnh, để khai thác hiệu quả Hiệp định CPTPP, ngành Công Thương sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành tập trung phát triển cho ngành công nghiệp phụ trợ, đầu tư xây dựng mới các cụm công nghiệp hỗ trợ và xây dựng những trung tâm phân phối nguyên phụ liệu để phục vụ sản xuất.
Cùng đó, phát triển thêm một số cụm công nghiệp chuyên ngành như cơ khí chế biến gỗ, may mặc… những ngành có chỉ số xuất khẩu cao của tỉnh để nhằm chuyên môn hóa cao và tận dụng nguyên liệu, phụ liệu có sẵn trong nước sản xuất được.
Mặt khác, tập trung phát triển dịch vụ chất lượng cao để hỗ trợ cho xuất nhập khẩu hàng hóa; trong đó, tập trung phát triển ngành dịch vụ logistics, phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Hơn nữa, tổ chức thực hiện hiệu quả chương trình xúc tiến thương mại theo hướng có trọng tâm, trọng điểm và kết hợp với việc tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp khai thác tốt các Hiệp định FTA đã ký kết nhằm tận dụng tốt các lợi thế và các chính sách ưu đãi về thuế quan.
Đặc biệt, kết nối hệ thống cơ quan Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài với doanh nghiệp trong tỉnh để mở rộng, đa dạng hóa thị trường và mặt hàng xuất khẩu; đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm, kết toán nguyên khu nguyên phụ liệu trong nước phục vụ sản xuất.
Bên cạnh đó, thường xuyên phối hợp cải cách hành chính thông qua các biện pháp chuyển đổi số nhằm tận dụng các loại thuế, công nghệ thông tin để tuyên truyền và phổ biến sâu rộng hơn nữa các quy định liên quan tới C/O ưu đãi, lợi thế của việc hàng hóa được cấp C/O ưu đãi đến các cá nhân, doanh nghiệp đóng trên địa bàn.