Tăng cường chuyển giao công nghệ, từng bước hội nhập với khu vực và thế giới hướng đến phát triển bền vững ngành công nghiệp mỏ
Trải qua gần 55 năm xây dựng và phát triển, Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ - Luyện kim (Vimluki) đã đạt được rất nhiều thành tựu nghiên cứu khoa học đáng ghi nhận với các kết quả nghiên cứu được đưa vào thực tiễn sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao. Viện luôn không ngừng nỗ lực đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học.
Trang TTĐT Khoa học công nghệ (KHCN) ngành Công Thương đã có trao đổi với TS. Đào Duy Anh - Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ - Luyện kim để tìm hiểu chi tiết hơn về những thành tựu KHCN Viện đã đạt được.
TS. Đào Duy Anh - Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ - Luyện Kim.
Phóng viên: Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ - Luyện kim đã có nhiều thành tựu nghiên cứu khoa học với các kết quả được đưa vào thực tiễn sản xuất. Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn các kết quả nghiên cứu KHCN nổi bật Viện đã đạt được trong thời gian qua?
TS. Đào Duy Anh: Là Viện nghiên cứu chuyên ngành về công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản trực thuộc Nạp Tiền 188bet (Bộ), trong suốt gần 55 năm qua, Vimluki luôn thực hiện tốt chức năng tham mưu cho công tác quản lý Nhà nước đối với ngành công nghiệp mỏ của Bộ thông qua việc góp ý, tham gia xây dựng các Nghị định, Thông tư, Quy định, Quy hoạch, Chiến lược, Tiêu chuẩn, Quy chuẩn, Định mức kinh tế, kỹ thuật phục vụ quản lý ngành, xây dựng, góp ý các văn bản chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ.
Trong nghiên cứu, triển khai KHCN, Vimluki luôn bám sát các chủ trương, chính sách phát triển KHCN của Đảng, Chính Phủ và Ngành Công Thương, nghiên cứu, giải quyết các vấn đề thực tiễn trong sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành như: nghiên cứu giải pháp công nghệ mới, nghiên cứu cải tiến công nghệ có sẵn trong khai thác, tuyển khoáng, luyện kim, sản xuất vật liệu kim loại có tính năng đặc biệt, nghiên cứu tái chế, tái thu hồi vật liệu có nguồn gốc khoáng sản, xử lý ô nhiễm môi trường…
Khánh thành Nhà máy tuyển đồng số 2 Sin Quyền do VIMLUKI chủ trì thực hiện.
Các kết quả nghiên cứu đã được chuyển giao, ứng dụng trong các doanh nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản. Một số dự án chuyển giao tiêu biểu như: Thiết kế bản vẽ thi công, chuyển giao công nghệ vận hành nhà máy tuyển quặng sắt mỏ Quý Xa, tỉnh Lào Cai công suất 1 triệu tấn/năm; Thiết kế bản vẽ thi công tổ hợp đập - nghiền quặng sắt mỏ Thạch Khê, tỉnh Hà Tĩnh; Thiết kế bản vẽ thi công, cung cấp thiết bị, lắp đặt, chuyển giao công nghệ vận hành nhà máy tuyển nổi quặng đồng mỏ Sin Quyền, tỉnh Lào Cai công suất 1,4 triệu tấn/năm; Thiết kế thi công nhà máy nghiền quặng zircon siêu mịn công suất 36 ngàn tấn/năm tại tỉnh Bình Thuận; Lập dự án đầu tư, thiết kế thi công nhà máy sản xuất pigmen công suất 80 ngàn tấn/năm tại tỉnh Bình Thuận; Thiết kế, chế tạo, lắp đặt, chuyển giao hệ thống đồng bộ tuyển nổi quặng thí nghiệm công suất 150 kg/h cho Công ty apatit Việt Nam…
Nghiên cứu giải pháp thiết bị công nghệ và hóa chất thuốc tuyển để tuyển quặng đất hiếm xâm nhiễm mịn mỏ đất hiếm Yên Phú
Ngoài ra, Vimluki còn thực hiện hàng trăm công trình dịch vụ KHCN cho các doanh nghiệp như: lập dự án tiền khả thi, khả thi, tư vấn thiết kế, cung cấp thiết bị, đào tạo, chuyển giao công nghệ… để phát triển các dự án vào sản xuất.
Phóng viên: Theo ông, trong hoạt động khai khoáng hiện nay có những vấn đề gì còn tồn tại? Tiềm năng và xu hướng phát triển của ngành công nghiệp mỏ?
TS. Đào Duy Anh: Do chính sách phân cấp cấp quyền khai thác mỏ cho địa phương giai đoạn trước đây và công tác quản lý chưa tốt nên rất nhiều tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động khoáng sản. Trong đó, có không ít các tổ chức có năng lực con người và tài chính hạn chế đã dẫn tới tình trạng khai thác, chế biến bằng công nghệ, thiết bị lạc hậu, gây mất mát, lãng phí tài nguyên lớn. Việc quản lý không tốt, đặc biệt là với các tổ chức hoạt động khoáng sản nhỏ lẻ đã dẫn tới không kiểm soát được thực tế công suất khai thác, việc khai thác vượt giấy phép khá phổ biến làm phá vỡ quy hoạch, cạn kiệt tài nguyên, thất thu ngân sách và đặc biệt là gây ô nhiễm, suy thoái môi trường.
Tuy vẫn còn một số bất cập như vậy, nhưng xét về tiềm năng, có thể thấy rằng Việt Nam là nước đang phát triển, đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hóa và trở thành cứ điểm sản xuất của thế giới, chúng ta cần nhiều nguyên liệu khoáng. Do đó, ngoài nhập khẩu, ngành công nghiệp khai khoáng trong nước cần phải phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cho các ngành công nghiệp.
Cụm vít tuyển dự án sản xuất thử nghiệm cấp nhà nước tại Bình Thuận - Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ - Luyện kim.
Vấn đề cần lưu ý đó là xây dựng kế hoạch và lựa chọn các giải pháp công nghệ, kỹ thuật và quản lý cho ngành sao để vừa thực hiện vai trò cung cấp, điều phối đủ nhu cầu nguyên liệu, vừa tiết kiệm tài nguyên khoáng sản cho các thế hệ sau và đặc biệt là hạn chế tối đa các rủi ro về môi trường từ hoạt động khoáng sản.
Phóng viên: Việc đẩy mạnh phát triển KHCN, áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển bền vững của ngành công nghiệp mỏ Việt Nam. Theo ông, các giải pháp nào cần triển khai để đạt được mục tiêu phát triển bền vững?
TS. Đào Duy Anh: Để phát triển bền vững, ngành công nghiệp mỏ (CNM) của Việt Nam cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ từ tư duy quản lý đến kỹ thuật, công nghệ, một số giải pháp chính như:
Một là, tổ chức đào tạo, đào tạo lại, nâng cao trình độ cho đội ngũ nhân lực hoạt động khoáng sản, đặc biệt là đội ngũ cán bộ KHCN, quản lý và kỹ thuật cần được trang bị kiến thức chuyên sâu về chuyên môn và sự hiểu biết đa ngành những lĩnh vực liên quan đến CNM, có khả năng tiếp cận với các thành tựu KHCN mới, làm chủ các trang thiết bị nghiên cứu, sản xuất hiện đại, có đủ kiến thức và khả năng thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0).
Hai là, Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích và dành nguồn lực thích hợp cho các nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu đón đầu xu hướng như những nghiên cứu về các loại thiết bị, vật liệu, hóa chất mới cho ngành CNM; nghiên cứu công nghệ tái sinh, tái chế các sản phẩm, vật liệu có nguồn gốc khoáng sản; nâng cao tiềm lực cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy thực tế cho các cơ sở đào tạo và các đơn vị nghiên cứu chuyên ngành CNM.
Đoàn công tác Vimluki tham quan phòng thí nghiệm nghiên cứu tuyển khoáng ĐH Queensland.
Ba là, tập trung nguồn lực toàn ngành cho mục tiêu xây dựng mô hình nền kinh tế tuần hoàn, trong đó ngành CNM phải tiên phong trong việc giảm thiểu khai thác khoáng sản thô. Có thể kể đến các giải pháp như khai thác tận thu tối đa khoáng sản; sử dụng công nghệ, thiết bị tiêu tốn ít năng lượng, nhiên liệu, có hiệu suất làm việc cao, hạn chế thấp nhất những tác động tiêu cực tới môi trường; khâu làm giàu, chế biến khoáng sản cần thu hồi tối đa khoáng sản chính và các khoáng sản có ích đi kèm; nghiên cứu sử dụng các vật liệu thải ra của quá trình khai thác và chế biến để sản xuất ra các loại nguyên liệu cho các ngành công nghiệp khác hay chế tạo ra các sản phẩm sử dụng ngay; nghiên cứu khả năng tái sử dụng các sản phẩm, tái chế những sản phẩm không thể tái sử dụng làm nguyên liệu cho chu kỳ sản xuất tiếp theo.
Cuộc CMCN 4.0 và xây dựng mô hình nền kinh tế tuần hoàn đang là xu hướng phát triển của thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Trong bối cảnh điều kiện khai thác tài nguyên khoáng sản ngày càng khó khăn, việc đẩy mạnh ứng dụng KHCN vào sản xuất có vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững của ngành CNM Việt Nam. Bên cạnh đó, việc định hướng nghiên cứu trong lĩnh vực khai thác mỏ trong bối cảnh biến đổi khí hậu và diễn biến phức tạp của tự nhiên cũng là bài toán cấp thiết đặt ra đối với các cấp quản lý, nhà khoa học Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển.
Xưởng điện phân thiếc - Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ - Luyện kim.
Phóng viên: Trước thực tế đó, trong thời gian tới Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ - Luyện kim có định hướng phát triển như thế nào?
TS. Đào Duy Anh: Trong thời gian tới, sẽ phát triển Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ - Luyện kim tổ chức tư vấn chính sách, nghiên cứu - phát triển, đào tạo, chuyển giao khoa học và công nghệ về các lĩnh vực: khai thác mỏ, tuyển khoáng, luyện kim, vật liệu, phân tích hóa, lý, môi trường công nghiệp luôn xứng với vị trí hàng đầu của Việt Nam, từng bước hội nhập về KHCN với các nước trong khu vực và thế giới. Trở thành doanh nghiệp KHCN với các sản phẩm trí tuệ và thương mại đặc thù ngành công nghiệp mỏ, có giá trị gia tăng cao.
Viện phấn đấu trở thành tổ chức tư vấn hàng đầu, đóng vai trò quan trọng trong xây dựng chính sách, tham mưu công tác quản lý Nhà nước đối với ngành công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản cho Đảng, Chính phủ và Nạp Tiền 188bet .
Trong công tác nghiên cứu, phát triển KHCN, tập trung vào các nhiệm vụ có mục tiêu thúc đẩy quá trình đổi mới và hiện đại hóa công nghệ, thiết bị trong ngành công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản theo xu hướng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và phát triển bền vững theo mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh.