Chuyển đổi xanh - Yêu cầu cấp thiết của doanh nghiệp xuất khẩu sang EU
Sau 3 năm triển khai EVFTA cho thấy kỳ vọng về sự tăng trưởng thương mại Việt Nam EU đã trở thành hiện thực. Tuy nhiên, từ năm thứ 3 trong lộ trình thực thi EVFTA, những lợi thế và kết quả này đã phần nào bị ảnh hưởng bởi EU đang áp dụng nhiều hơn các tiêu chuẩn cao, gia tăng các yêu cầu về chất lượng đặc biệt trong lĩnh vực môi trường, phát triển bền vững… Điều này cũng đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải đổi sang phát triển sản xuất xanh, ứng dụng công nghệ tiêu chuẩn cao để thích ứng với “luật chơi” mới này.
Những tiêu chuẩn “xanh”
Tại Tọa đàm “Chuyển đổi xanh - yêu cầu cấp thiết của doanh nghiệp xuất khẩu sang EU” do Tạp chí Công Thương tổ chức ngày 19/9, theo ông Ngô Chung Khanh – Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại Đa biên (Nạp Tiền 188bet ), trong Hiệp định EVFTA có một chương là Phát triển bền vững, đề cập đến vấn đề về môi trường và lao động.
“Về môi trường, trong EVFTA đề cập đến bốn khía cạnh chính: biến đổi khí hậu; đa dạng sinh học; quản lý rừng bền vững và thương mại lâm sản; quản lý phát triển, bảo tồn các sinh vật biển và nuôi trồng thủy sản. Về biến đổi khí hậu, bản chất theo EVFTA hai bên sẽ phối hợp với nhau chia sẻ thông tin, kinh nghiệm trong quá trình liên quan đến cơ chế về định giá carbon, giảm thải carbon”- ông Ngô Chung Khanh thông tin và cho rằng, vấn đề này đặt ra yêu cầu doanh nghiệp cần phải chú ý trong quá trình lựa chọn nguyên liệu làm sao đảm bảo được quy trình sản xuất của mình, thân thiện môi trường, hạn chế tối đa sử dụng các nguồn nguyên liệu gây hại môi trường.
Đối với đa dạng sinh học, hai bên hợp tác để chống các hành động, hoạt động sản xuất ảnh hưởng đến bảo tồn sinh học và đặc biệt là ngăn chặn và hạn chế tối đa các hoạt động mua bán, trao đổi động vật trái phép. Về vấn đề này ông Ngô Chung Khánh lưu ý, doanh nghiệp cần chú ý đến môi trường khi sản xuất và đặc biệt cần ngăn chặn và tuyệt đối không tham gia các hoạt động mua bán, trao đổi các động thực vật trái phép.
Liên quan đến quản lý rừng bền vững và thương mại lâm sàng, EU và Việt Nam sẽ phối hợp với nhau làm sao để bảo tồn, phát triển rừng bền vững theo hướng hạn chế cũng như ngăn chặn các sản phẩm sử dụng các nguồn gốc gỗ không hợp phá.
“Doanh nghiệp cần hết sức chú ý trong quá trình sản xuất, đặc biệt khi nhập khẩu gỗ phải có một nguồn gốc rõ ràng, hợp pháp thì sản phẩm của chúng ta mới được công nhận tại thị trường EU”- ông Ngô Chung Khanh lưu ý.
Liên quan đến đa dạng sinh học, bảo lộ, bảo tồn các nguồn tài nguyên biển, nuôi trồng thủy sản, ông Ngô Chung khuyến nghị doanh nghiệp chú ý trong quá trình nuôi trồng thủy sản cũng cần phải đảm bảo các thủ tục, tiêu chuẩn để chứng nhận sang thị trường EU và tuyệt đối không tham gia hay không mua bán các sản phẩm có nguồn gốc từ đánh bắt cá trái phép, sử dụng các nguồn, công cụ gây thiệt hại cho đến nguồn sinh vật biển.
Còn về vấn đề lao động trong EVFTA khẳng định hai bên sẽ tôn trọng các quyền trong Công ước cơ bản của Liên Hợp Quốc, Tổ chức lao động quốc tế. Các quyền này đã được quy định rất rõ trong Công ước mà Việt Nam đã, đang và sẽ tham gia.
Đối với cơ chế thực thi, ông Ngô Chung Khanh khẳng định, EVFTA là không phải hiệp định thương mại thông thường mà đây là một hiệp định có yếu tố rất quan trọng về phát triển bền vững. Bởi vì chúng ta đều biết là EU rất quan tâm đến việc phát triển bền vững.
“Cho nên các doanh nghiệp muốn xuất khẩu sang EU một cách bền vững cần hết sức quan tâm đến vấn đề phát triển vững, quan tâm vấn đề môi trường, quan tâm đến lao động”- ông Ngô Chung Khanh nhấn mạnh.
Thông tin thêm về những quy định, tiêu chuẩn xanh của EU, bà Nguyễn Hồng Loan, - Chuyên gia Dự án Hỗ trợ kỹ thuật về đánh giá tác động của CBAM chia sẻ thêm, EU vốn là thị trường có tiêu chuẩn liên quan đến môi trường rất cao và quy định của EU với sản phẩm trong nước liên quan đến môi trường đã được quy định từ rất sớm, từ những năm 1987.
Tuy nhiên, gần đây, các quy định này được quy định chặt chẽ hơn, tăng tốc hơn, bắt đầu từ việc EU phê duyệt Thỏa thuận xanh với mục tiêu giảm 55% phát thải khí nhà kính vào năm 2030 so với năm 1990 và hướng tới mục tiêu rất tham vọng là đạt được phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Cùng với quy định này, EU còn đưa ra các đề xuất khác nhau, toàn diện trong tất cả các lĩnh vực để đảm bảo đạt được mục tiêu bao trùm tất cả các lĩnh vực từ nông, lâm nghiệp, thủy sản, giao thông vận tải, hàng không. Do đó, khi áp dụng với hàng hóa EU sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ chuỗi cung ứng với sản phẩm xuất khẩu sang EU như của Việt Nam.
“Đặc biệt, quy định gần đây được phê duyệt vào tháng 5/2003 và chính thức có hiệu lực từ ngày mùng 1/10 năm nay là CBAM của EU đã đưa định giá carbon của EU để áp với các sản phẩm xuất khẩu. Thế nhưng, EU cũng đưa ra lộ trình để doanh nghiệp có thời gian chuyển tiếp từ nay đến năm 2026 và tỉ lệ phải chi trả chứng chỉ CBAM cũng sẽ tăng dần từ năm 2026 đến năm 2034”- bà Loan thông tin.
Chủ động nắm bắt đúng, thích ứng tiêu chuẩn xanh
Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập - Liên đoàn Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, những tiêu chuẩn xanh hay bền vững của EU sẽ bao trùm tất cả những sản phẩm được xem là thế mạnh của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường EU như: nông thủy sản, đồ gỗ, dệt may, da giày…Vì vậy, số lượng, phạm vi doanh nghiệp và hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam bị ảnh hưởng rất lớn. Đây cũng là thách thức với doanh nghiệp trong nước bởi tiêu chuẩn này không phải đặt ra, sau đó tuân thủ là xong, mà đây là một chuỗi những thay đổi và xanh dần, bền vững dần. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp muốn tuân thủ phải thường xuyên theo dõi mới đảm bảo được. Cuối cùng, việc thích ứng với những tiêu chuẩn này đòi hỏi nỗ lực, nhận thức và chi phí rất lớn với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tuy nhiên, theo bà Trang, quá trình chuyển đổi xanh của EU là một quá trình theo lộ trình từng bước và có thời gian để cho các doanh nghiệp của EU cũng như các doanh nghiệp, đối tác của EU và nhà cung cấp của EU như các nhà xuất khẩu, sản xuất, xuất khẩu Việt Nam có thể thích ứng dần dần.
“Có gần 70% doanh nghiệp Việt Nam đã biết về chương trình từ nông trại đến bàn ăn của EU trong chiến lược xanh áp dụng đối với các sản phẩm nông sản thực phẩm hay đến gần 80% doanh nghiệp có liên quan biết đến luật chống phá rừng của EU. Chiến lược dệt may thì có ít hơn một chút, khoảng gần 60%; CBAM ít hơn nữa bởi vì hiện nay nó mới giới hạn ở 6 loại sản phẩm mà trong đó phần lớn không phải là những sản phẩm thế mạnh của Việt Nam xuất khẩu. Điều này cho thấy các doanh nghiệp của chúng ta đã bắt đầu biết đến”- bà Trang nhấn mạnh và cho rằng nếu các doanh nghiệp Việt Nam có cái nhìn tổng thể, sẵn sàng chuẩn bị, không phải nước đến chân rồi nhảy không kịp.
Là một trong những ngành đang gặp những khó khăn nhất định trước những tiêu chuẩn xanh mà thị trường này đang đặt ra, ông Vương Đức Anh, Chánh Văn phòng HĐQT Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) – cho rằng, phát triển bền vững là một xu thế không thể đảo ngược. Chúng ta phải chủ động nắm bắt để cố gắng làm sao mà bắt được nhịp cùng với thị trường; bắt sớm quá cũng sẽ không hiệu quả, nhưng mà phải bắt đúng.
Vinatex xác định phát triển bền vững sẽ là câu chuyện về chiến lược đường dài mà không thể một sớm một chiều, ngay lập tức chuyển đổi toàn bộ. Vì vậy, doanh nghiệp phải bám sát theo yêu cầu của khách hàng, cũng chính là yêu cầu của thị trường.
Đặc biệt, khi nhu cầu tiêu thụ dệt may trong năm 2023 và cả năm 2024 dự báo sẽ còn thấp, khi các nước tiêu thụ lớn vẫn đang thắt chặt chi tiêu doanh nghiệp phải nhìn nhận lại, tận dụng thuận lợi trước mắt khi khách hàng vẫn ưu tiên các sản phẩm phổ thông trước. Tất nhiên, EU vẫn bám theo mục tiêu cuối cùng là đến năm 2030 sử dụng 50% nguyên liệu tái chế nhưng ở thời điểm này đang chậm nhịp lại, Việt Nam cũng phải chậm nhịp lại.
Về phía Vinatex, Tập đoàn đang tập trung đào tạo nhân sự cho chiến lược phát triển bền vững, thay đổi nhận thức, trang bị những hiểu biết, thông tin cho nhân lực. Đặc biệt, việc tổ chức sản xuất thử nghiệm với mặt hàng phát triển bền vững thực sự sẽ rất tốn kém song cũng cần cân đối vì phát triển bền vững chắc chắn là mục tiêu nằm trong chiến lược trung và dài hạn. Các giải pháp cũng linh hoạt và đáp ứng theo yêu cầu của thị trường.